Bản án 107/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 107/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 91/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 29/2020/TB-HS ngày 24 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vòng Kỷ D, sinh năm1991; Nơi cư trú: Số 575, đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hoa; Cha: Vòng A N, sinh năm 1969; Mẹ: Nìn Cún K, sinh năm 1972; Anh chị em ruột: có 04 người, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2006; Vợ, con: chưa có; Tiền án: có 01 tiền án: Bản án số 66/2017/HSST ngày 16/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 13/12/2018; Tiền sự: không; Ngày 20/02/2020 bị bắt tạm giữ, tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Thái N, sinh năm 1984 Trú tại: Số 100, đường Nguyễn Thái Học, thị trấn L N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

– Ông Phan Long Th, sinh năm 1992 Trú tại: Số 147, Quốc lộ 20, thị trấn L N, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 20/02/2020, tại đầu hẻm 141 thôn Phú Thịnh, xã P H, huyện Đ, Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra Vòng Kỷ D điều khiển xe gắn máy hiệu Nouvo biển số 49E1 – 265.24 đang đứng nói chuyện với Phan Long Th điều khiển xe gắn máy hiệu SH biển số 49E1–680.20, khi thấy lực lượng Công an bị cáo D bỏ chạy thì bị lực lượng Công an khống chế bắt giữ, Phan Long Th để lại xe SH bỏ chạy. Tại vị trí D đứng cơ quan Công an phát hiện 01 gói thuốc lá 555, kiểm tra bên trong gói thuốc 555 có 01 gói nylon chứa 100 viên nén màu xanh hình tròn nghi là ma túy, Công an Đ tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vòng Kỷ D và niêm phong toàn bộ chất thu giữ được của D trong phong bì dán kín trước sự chứng kiến của D và ký tên xác nhận. Tiếp tục đưa bị cáo D về tại nơi ở số 114/2 thôn Phú Thịnh, xã P H, huyện Đ để tiến hành khám xét khẩn cấp, qua khám xét thu giữ 231 viên nén màu xanh hình tròn có chữ L và V lồng vào nhau, 60 viên nén màu xanh có in hình vương miện nghi là ma túy, cơ quan Công an tiến hành niêm phong toàn bộ số chất thu giữ được trong phong bì dán kín trước sự chứng kiến của bị cáo D và ký tên xác nhận. Đến ngày 21/02/2020 Cơ quan điều tra Công an Đ tiếp tục ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo D tại số 575, đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ, qua khám xét phát hiện và thu giữ trên la phông nhà trên lầu có 01 nhánh cây thực vật khô nghi là ma túy, cơ quan Công an đã tiến hành niêm phong nhánh thực vật khô của D trong phong bì dán kín trước sự chứng kiến của bị cáo D và ký tên xác nhận.

Qua đấu tranh ban đầu bị cáo D khai nhận 391 viên nén màu xanh nghi là ma túy mà Cơ quan điều tra đã thu giữ là do một người tên Tuấn Anh (không rõ nhân thân, lai lịch) nhờ bị cáo D giữ giùm và hẹn khi nào sắp xếp được sẽ đưa đi, đối với nhánh thực vật nghi là ma túy thu giữ trong căn nhà ở số 575 đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ D khai nhận là ma túy cần sa của bị cáo D được một người bạn tên Vũ (không rõ nhân thân, lai lịch) cho, sau đó bị cáo D cất dấu để sử dụng cho bản thân.

Ngày 26/02/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có kết luận giám định số 542/GĐ-PC09, kết luận:

- Phong bì 01: Mẫu 100 viên nén màu xanh (ký hiệu M1) đựng trong một túi nylon được niêm phong gửi giám định có khối lượng 40,9390g. Phòng PC09 Công an tỉnh Lâm Đồng không đủ phương tiện kỹ thuật để giám định, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ gửi mẫu vật trên đến Phân viện khoa học hình sự Bộ công an để giám định. Trong quá trình giám định Phòng PC09 đã sử dụng hết 2,0345g M1.

- Phong bì 02: Mẫu 60 viên nén màu xanh (ký hiệu M2) đựng trong hai túi nylon được niêm phong gửi giám định có khối lượng 24,5238g và 231 viên nén màu xanh (ký hiệu M3) đựng trong hai túi nylon niêm phong gửi giám định có khối lượng 120,6101g. Phòng PC09 Công an tỉnh Lâm Đồng không đủ phương tiện kỹ thuật để giám định, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ gửi mẫu vật trên đến Phân viện khoa học hình sự Bộ công an để giám định. Trong quá trình giám định Phòng PC09 đã sử dụng hết l,6465g M2 và l,6497g M3.

- Phong bì 03: Mẫu cành, lá cây thực vật tươi (ký hiệu M4) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 7,7126g, là cần sa.

(Cần sa là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT: 45,Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Ngày 09/03/2020, Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh có kết luận giám định số 1611/GĐ-PC09, kết luận:

- Gói 1:

+ Các viên nén màu xanh lá có logo hình vương miện đựng trong 02 gói nylon được niêm phong gửi giám định đều không tìm thấy các chất ma túy và tiền chất trong Danh mục các chất ma túy và tiền chất của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

+ Các viên nén màu xanh ngọc có logo LV đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định đều không tìm thấy các chất ma túy và tiền chất trong Danh mục các chất ma túy và tiền chất của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Gói 2: Thảo mộc khô đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, là cành, lá và hoa Cần sa, về khối lượng đã được Phòng KTHS Công an tỉnh Lâm Đồng trả lời trong Bản Kết luận giám định số:

542/GĐ-PC09 ngày 26/02/2020.

Ngoài các viên nén và cần sa nêu trên, Cơ quan điều tra còn thu giữ các vật chứng sau:

- 01 xe mô tô Nouvo biển số 49E1 – 265.24.

- 01 xe mô-tô SH biển số 49E1 – 680.20.

- 01 điện thoại di động Samsung màu xám đen loại màn hình cảm ứng.

- 01 điện thoại di động Nokia màu đen loại bàn phím.

- 01 gói thuốc lá hiệu 555.

Đối với các viên nén và ma túy còn lại sau giám định cùng 02 chiếc điện thoại di động, gói thuốc lá hiện đã bàn giao Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ chờ xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 49E1 – 265.24 bị cáo D khai nhận chiếc xe trên bị cáo mượn của ông Nguyễn Thái N, ông N không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo D, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nam.

Đối với chiếc xe mô-tô biển số 49E1 – 680.20, qua xác minh chiếc xe trên của Phan Long Th. Thân khai nhận khi gặp D, thấy D bỏ chạy Th không hiểu chuyện gì nên cũng hoảng sợ bỏ chạy. Bản thân Th không liên quan đến hành vi phạm tội của D, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho Th.

Tại bản cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 08 tháng 6 năm 2020 của Viện Kiểm Sát Nhân dân huyện Đ đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Đ để xét xử bị cáo: Vòng Kỷ D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo điểm a khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân huyện Đ thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên Cáo trạng truy tố bị cáo Vòng Kỷ D về tội tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Vòng Kỷ D từ 18 đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại Tòa bị cáoVòng Kỷ D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hoạt động điều tra, truy tố của điều tra viên, kiểm sát viên thì thấy rằng trong quá trình điều tra, truy tố, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

[2]Tại phiên tòa bị cáo Vòng Kỷ D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 20/02/2020, tại đầu hẻm 141 thôn Phú Thịnh, xã P H, Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra bị cáo Vòng Kỷ D điều khiển xe gắn máy hiệu Nouvo biển số 49E1 – 265.24 đang đứng nói chuyện với Phan Long Th điều khiển xe gắn máy hiệu SH biển số 49E1 – 680.20, khi thấy lực lượng Công an bị cáo D bỏ chạy thì bị lực lượng Công an khống chế bắt giữ, Phan Long Th để lại xe SH và bỏ chạy. Tại vị trí bị cáo D đứng, cơ quan Công an phát hiện 01 gói thuốc lá 555, kiểm tra bên trong gói thuốc 555 có 01 gói nylon chứa 100 viên nén màu xanh hình tròn nghi là ma túy, Công an Đ tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Vòng Kỷ D và niêm phong toàn bộ chất thu giữ được của bị cáo D. Quá trình khám xét tại nơi ở của bị cáo Vòng Kỷ D tại số nhà 114/2 thôn Phú Thịnh, xã P H, huyện Đ thu giữ 231 viên nén màu xanh hình tròn có chữ L và V lồng vào nhau, 60 viên nén màu xanh có in hình vương miện nghi là ma túy. Đến ngày 21/02/2020 Cơ quan điều Công an Đ tiếp tục ra lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vòng Kỷ D tại số nhà 575, đường Thống Nhất, thị trấn L N, huyện Đ, qua khám xét phát hiện và thu giữ trên la phông nhà trên lầu có 01 nhánh cây thực vật khô nghi là ma túy.

Qua đấu tranh ban đầu bị cáo Vòng Kỷ D khai nhận 391 viên nén màu xanh nghi là ma túy mà cơ quan điều tra đã thu giữ là do một người tên Tuấn Anh (không rõ nhân thân, lai lịch) nhờ bị D giữ giùm và hẹn khi nào sắp xếp được sẽ đưa đi, đối với nhánh thực vật nghi là ma túy bị cáo D khai nhận là ma túy cần sa của bị cáo D được một người bạn tên Vũ (không rõ nhân thân, lai lịch) cho để sử dụng cho bản thân.

Ngày 26/02/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có kết luận giám định số 542/GĐ-PC09. Kết luận mẫu cành lá thực vật tươi (ký hiệu M4) được giám định là Ma túy, khối lượng 7,7126g là cần sa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Vòng Kỷ D đã phạm vào tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo Vòng Kỷ D là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trị an địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tàng trữ chất ma túy trái phép bị pháp luật nghiêm cấm là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác.

[4] Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Tại bản án số 66/2017/HSST ngày 16/08/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ đã xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”chấp hành xong ngày 13/12/2018 chưa được xóa án tích. Lần này bị cáo tàng trữ 7,7126g là cần sa đây là tình tiết định tội đối với bị cáo nên không xem xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét giảm nhẹ hình phạt.

[5] Từ những phân tích nhận định trên, căn cứ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình và mang tính chất răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

[6] Về vật chứng:

- Đối với 01 phong bì màu trắng dán kín, giấy niêm phong vụ số 1611/1 ngày 30/3/2020; 01phong bì màu trắng dán kín, giấy niêm phong vụ số 1611/2 ngày 30/3/2020, có chứ ký người chứng kiến Nguyễn Phước Ninh và cán bộ điều tra Hàn Văn Thủy; 01 phong bì màu trắng dán kín, niêm phong số 542/2020 “Bao gói” có đóng dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng và 01 gói thuốc lá hiệu 555 xét thấy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám đen loại màn hình cảm ứng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen loại bàn phím bị cáo sử dụng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần hoàn trả cho bị cáo là phù hợp.

- Đối với chiếc xe Môtô biển kiểm soát 49E1-265.24 và xe Môtô biển kiểm soát 49E1-680.20 lần lượt thuộc sở hữu của anh Nguyễn Thái N và Phan Long Th cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đối với người đàn ông tên Tuấn Anh và người tên Vũ do thông tin đối tượng không cụ thể chưa xác minh được đối tượng nên tách ra xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Vòng Kỷ D phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vòng Kỷ D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Vòng Kỷ D 24 (hai bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ/tạm giam ngày 20 tháng 02 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì màu trắng dán kín, giấy niêm phong vụ số 1611/1 ngày 30/3/2020; 01phong bì màu trắng dán kín, giấy niêm phong vụ số 1611/2 ngày 30/3/2020, có chứ ký người chứng kiến Nguyễn Phước Ninh và cán bộ điều tra Hàn Văn Thủy; 01 phong bì màu trắng dán kín, niêm phong số 542/2020 “Bao gói” có đóng dấu đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng và 01 gói thuốc lá hiệu 555 - Hoàn trả cho Vòng Kỷ D 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám đen loại màn hình cảm ứng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen loại bàn phím.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng) 3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Vòng Kỷ D phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáocó quyền kháng cáo, riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần có liên quantrong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về