Bản án 107/2020/HS-PT ngày 29/10/2020 về tội nhận hối lộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 107/2020/HS-PT NGÀY 29/10/2020 VỀ TỘI NHẬN HỐI LỘ

Ngày 29 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 101/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 về tội “Nhận hối lộ” đối với bị cáo Dương Quốc Tuấn, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HSST ngày 28/08/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk G’Long, tỉnh Đắk Nông.

- Bị cáo có kháng cáo: Dương Quốc T, sinh năm 1974 tại Quảng Nam; nơi cư trú: B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Công an viên; Phó trưởng bon N’Ting, Tổ phó tổ quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng bon N’Ting; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương T (đã chết) và bà Bùi Thị T, sinh năm 1956; có vợ là Mai Thị N và có 03 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01-11-2019 - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn H– Luật sư Văn phòng Luật sư Nguyễn Thiên H thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông – Có mặt - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Bàn Phù S và chị Triệu Thị T; cùng địa chỉ: Thôn Q, xã S, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người làm chứng:

- Anh K’T; địa chỉ: B, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Có mặt.

- Anh Hoàng Văn S, địa chỉ: Thôn Q, xã S, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

- Anh Triệu Tòn P, địa chỉ: Thôn Q, xã S, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05-7-2013, Ủy ban nhân dân huyện Đắk G’Long, tỉnh Đắk Nông ban hành Quyết định số 2580/QĐ-UBND, về việc tạm giao 2.256.000 m2 đt rừng tại khoảnh 1, 2, 3 Tiểu khu 1658 nằm trên địa giới hành chính xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong cho Cộng đồng thôn 2 (Bon N’Ting), xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong để quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Ngày 18-5-2017, Cộng đồng bon N’Ting tiến hành họp để bầu lại tổ quản lý, bảo vệ rừng theo đó Dương Quốc T được bầu làm Tổ phó. Sau đó, T còn được bầu làm Phó Trưởng bon N’Ting và Công an viên của bon N’Ting, theo Quyết định số 82/QĐ-UBND ngày 02-11- 2017 và Quyết định số 31/QĐ-UBND ngày 05-4-2018 của UBND xã Quảng Sơn.

Từ tháng 4-2018 đến tháng 4-2019, Tuấn đã 03 lần có hành vi nhận hối lộ.

Lần thứ nhất: Tháng 4-2018, T đi tuần tra tại khu rừng thuộc khoảnh 2 Tiểu khu 1658 thì gặp Bàn Phù S, có rẫy giáp khu rừng. S đặt vấn đề nếu T đồng ý cho S cắt cây gỗ trong khu rừng để làm nhà, S sẽ đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng thì T đồng ý. Sau đó S đưa cho T số tiền 2.000.000 đồng, rồi cắt cây gỗ làm được 01 căn nhà trên đất rẫy.

Lần thứ hai: Tháng 10-2018, vì muốn có đường đi thuận lợi vào rẫy nên S tiếp tục đặt vấn đề với T xin phát dọn khu rừng chồi tại khoảnh 2 Tiểu khu 1658, ngược lại S sẽ đưa cho T số tiền 5.000.000 đồng thì T đồng ý. Sau đó, S tiến hành phát dọn khu rừng chồi để lấy đường đi, được diện tích là 477m2. T đã gặp S đòi tiền nhiều lần nhưng S nói chưa có. Tháng 4-2019, S gọi điện trả tiền T cho S số điện thoại của con trai T là Dương Quốc P và S đưa cho P số tiền 5.000.000 đồng, P biết mục đích S đưa tiền cho T vì T cho S phá rừng. Trong lúc đưa tiền, S nói P cho S chặt phá khu rừng phía trên đầu rẫy của S để mở rộng diện tích thì P đồng ý. Sau đó P cầm số tiền 5.000.000 đồng về đưa cho T đồng thời nói cho T biết S xin chặt phá rừng, còn S tiến hành chặt phá rừng mở rộng diện tích được 1.319 m2 rồi trồng cà phê trên đất.

Ln thứ ba: Cuối tháng 4-2019, Tổ quản lý, bảo vệ rừng của Cộng đồng bon N’Ting đưa máy múc vào múc ranh để khoanh vùng diện tích đất rẫy mà các hộ dân đang lấn chiếm đất rừng thì một số hộ dân phản ánh với T về việc S nói T đã nhận tiền hối lộ của S. Bức xúc về việc này, T gọi điện cho S yêu cầu S đưa cho T số tiền 5.000.000 đồng nếu không T sẽ cho máy múc vào múc ranh, khoanh vùng đối với nhà và cây cà phê mà S đã làm và trồng trên đất rừng lấn chiếm. Vài ngày sau, S đến nhà T đưa cho T số tiền 4.000.000 đồng.

Nhận tiền xong, T không cho máy múc, múc ranh đối với diện tích đất rừng S đã lấn chiếm.

Do sợ Dương Quốc T sẽ tiếp tục yêu cầu đưa tiền nên ngày 30-8-2019, Bàn Phù S đã làm đơn tố cáo Tuấn gửi Công an huyện Đắk Glong.

Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HSST ngày 28 – 8 – 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk G’Long đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Dương Quốc T phạm tội “Nhận hối lộ”.

Căn cứ điểm đ, g khoản 2 Điều 354; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Quốc T 08 (Tám) năm tù.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.

Ngày 31 – 8 - 2020, bị cáo T kháng cáo cho rằng mức hình phạt quá nặng, xin giảm nhẹ hình phạt.

Ti phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thừa nhận Tòa án nhân dân huyện Đắk G’Long xử phạt bị cáo về tội “Nhận hối lộ” là đúng, không oan.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b, c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố Tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Quốc T sửa bản án sơ thẩm về điều luật áp dụng và hình phạt, áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Quốc T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Luật sư Nguyễn Văn H trình bày: Bị cáo Dương Quốc T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và buộc tội nhận hối lộ là chưa có căn cứ vì bị cáo không phải là người có chức vụ quyền hạn trong việc quản lý, bảo vệ rừng; Biên bản bầu Dương Quốc T ngày 18/5/2017 là không có giá trị thực hiện vì không được Ủy ban nhân dân xã Quảng Sơn chấp nhận nên đề nghị cấp phúc thẩm xem xét để điều tra lại. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tội danh: Dương Quốc T với chức vụ là Thành viên Tổ quản lý, bảo vệ rừng của Cộng đồng bon N’Ting, Phó Trưởng bon N’Ting và Công an viên của bon N’Ting, xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong ( BL 121; 122; 471) đã 03 lần nhận hối lộ, cụ thể: Lần thứ nhất: Khoảng tháng 4-2018, bị cáo đã nhận của S số tiền 2.000.000 đồng rồi đồng ý cho Siệu cưa hạ cây gỗ trong rừng để làm nhà; lần thứ hai: Khoảng tháng 4-2019, tiếp tục nhận của S số tiền 5.000.000 đồng sau khi đã đồng ý cho S chặt phá diện tích rừng chồi 477 m2 để làm đường vào rẫy của S và đồng ý cho Siệu phá 1.319 m2 rừng sản xuất để mở rộng diện tích đất rẫy; lần thứ ba: Khoảng cuối tháng 4-2019, bị cáo đòi S đưa hối lộ số tiền 5.000.000 đồng nếu không sẽ cho máy múc múc ranh, khoanh vùng đối với diện tích đất rừng S đã lấn chiếm. Sau đó S đã đưa cho bị cáo số tiền 4.000.000 đồng. Tổng số tiền nhận hối lộ là 11.000.000 đồng. Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số: 46/2020/HS-ST ngày 28- 8 -2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk G’Long đã kết án bị cáo Dương Quốc T về tội “Nhận hối lộ” quy định tại điểm đ, g khoản 2 Điều 354 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2017 đến tháng 4/2019 bị cáo Dương Quốc T được Bon N’Ting và Ủy ban nhân dân xã Quảng Sơn bầu và bổ nhiệm giữ các chức vụ Tổ phó tổ bảo vệ rừng ngày 18/5/2018, phó Trưởng bon N’Ting ngày 02/11/2017 và được bổ nhiệm Công an viên Bon N’Ting ngày 05/4/2018. Lợi dụng quyền hạn của mình bị cáo đã ba lần nhận tiền của Bàn Phù S để S lấn chiếm đất rừng đang được Cơ quan có thẩm quyền giao cho cộng đồng dân cư quản lý, bảo vệ trong đó có một lần bị cáo gọi điện ép buộc S phải đưa tiền vì sợ bị cáo cho máy múc phần đất của mình đã lấn chiếm trồng cây cà phê nên buộc S phải đưa cho bị cáo 4.000.000đ. Hành vi phạm tội của bị cáo nêu trên được quy định tại các điềm đ, g khoản 2 Điều 354 của Bộ luật hình sự là những tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo.

Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ và xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thừa nhận hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết mới nên Hội đồng xét xử cần áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử có căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b, c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Quốc T, sửa Bản án sơ thẩm số: 46/2020/HS- ST ngày 28 – 8 – 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk G’Long về điều luật áp dụng và hình phạt.

n cứ điểm đ, g khoản 2 Điều 354; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Quốc T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01- 11- 2019.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

429
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2020/HS-PT ngày 29/10/2020 về tội nhận hối lộ

Số hiệu:107/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về