TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 107/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 22 tháng 09 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 85/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 08 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 66/2020/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 09 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Y, sinh năm 1985; HKTT: Thôn P, xã Hg, huyện G, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình S, sinh năm 1984;
Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Thôn P, xã Hg, huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan, Trung Quốc.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Phạm Thị Y trình bày: Chị và anh Nguyễn Đình S được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 20/12/2005 tại UBND xã H, huyện G, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do từ năm 2016 anh S đi lao động ở nước ngoài, không chịu khó làm ăn, thường xuyên chơi bời, không gửi tiền về cho chị để nuôi dạy con chung, cũng không còn liên lạc với chị. Sau một thời gian dài vợ chồng không liên lạc, quan tâm nhau, chị Y xác định tình cảm vợ chồng của chị và anh S không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể khắc phục, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó, chị Y đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh S để hai bên ổn định cuộc sống.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị Y, anh S có 02 con chung là Nguyễn Phương L (sinh ngày 15/10/2006) và Nguyễn Đình Quang A (sinh ngày 07/11/2007). Hiện nay, hai cháu đang do chị Y nuôi dưỡng. Chị Y đề nghị Tòa án cho chị nuôi cả 02 con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị Y không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tòa án tiến hành lấy lời khai của cháu Nguyễn Đình Quang A, sinh ngày 07/11/2007 và cháu Nguyễn Phương L, sinh ngày 15/10/2006 là con chung của chị Y và anh S. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 01/07/2020, cháu Quang A và cháu L trình bày: Hiện nay, hai cháu đều đang ở với mẹ tại Thôn P, xã H, huyện G, tỉnh Hải Dương. Nếu bố mẹ ly hôn, hai cháu muốn được ở với mẹ vì mẹ cháu nuôi hai cháu từ bé.
Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của ông Nguyễn Đình C là bố của anh Nguyễn Đình S. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 15/07/2020 và 23/6/2020, ông C trình bày: Anh S và chị Y kết hôn từ cuối năm 2005. Hiện nay, anh S đang lao động tại Đài Loan. Anh S đã được ông thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án gửi và anh S cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị Y làm đơn xin ly hôn, anh S xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh S đồng ý ly hôn chị Y. Do anh S không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Đài Loan nên ông không thể cung cấp cho Tòa án.
Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 8426/QLXNC-P5 ngày 09/06/2020 thể hiện: Anh Nguyễn Đình S, sinh ngày 29/03/1984 tại Hải Dương, CMND số: 142220291, địa chỉ thường trú tại: Xã H, huyện G, Hải Dương; đã sử dụng hộ chiếu số C1171587 do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp ngày 28/12/2015, để xuất cảnh lần gần nhất ngày 14/08/2017 qua cửa khẩu sân bay quốc tế Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.
Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt (Chị Y có đơn xin xét xử vắng mặt).
Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Việc thu thập tài liệu chứng cứ và thời hạn chuẩn bị xét xử chưa thực hiện đúng quy định, đề nghị HĐXX ngừng phiên tòa để tiếp tục yêu cầu đương sự cung cấp địa chỉ của bị đơn đến khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử (từ 09 đến 12 tháng kể từ ngày thụ lý), Kiểm sát viên không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Phạm Thị Y có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương, có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Đình S, là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Tại phiên tòa chị Y vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh S vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Y và anh S tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 20/12/2005 tại UBND xã H, huyện G, tỉnh Hải Dương nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Từ năm 2016, anh S đi lao động ở nước ngoài, không chịu khó làm ăn, không gửi tiền về cho chị để nuôi dạy con chung cùng chị Y. Sau một thời gian dài vợ chồng không liên lạc, quan tâm nhau. Chị Y xác định tình cảm vợ chồng của chị và anh S không còn, mâu thuẫn trầm trọng không thể khắc phục, đời sống chung không thể kéo dài. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị Y, anh S cũng được đại diện gia đình anh S và chính quyền địa phương xác nhận. HĐXX xét thấy hôn nhân của chị Y và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị Y ly hôn với anh S là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về quan hệ nuôi con chung: Chị Y và anh S có 02 con chung là Nguyễn Phương L – sinh ngày 15/10/2006, Nguyễn Đình Quang A – sinh ngày 07/11/2007, hai cháu đều đang ở với chị Y. Khi ly hôn chị Y có nguyện vọng được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh S cấp dưỡng tiền nuôi con. Xét thấy, chị Y có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị Y nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này anh S về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị Y không yêu cầu anh S cấp dưỡng nên việc cấp dưỡng không đặt ra, sau này chị Y có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.
[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị Y và anh S không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;
khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Y.
Xử cho chị Phạm Thị Y ly hôn anh Nguyễn Đình S.
2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Phạm Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Phương L – sinh ngày 15/10/2006, Nguyễn Đình Quang A – sinh ngày 07/11/2007 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.
Anh Nguyễn Đình S có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị Y phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) đồng án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2018/0002150 ngày 11/5/2020. Chị Y đã nộp đủ án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Y có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 107/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 107/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về