TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 107/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN
Trong ngày 22 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A mở phiên toà xét sử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 401/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1965.
Cư trú: Tổ 05, ấp P, xã H, huyện A, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1965.
Cư trú: Tổ 05, ấp P, xã H, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà L có mặt, ông B vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên hòa giải bà Huỳnh Thị L trình bày: Hôn nhân của bà và ông B là do mai mối được gia đình đồng ý nên tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2001 tại UBND xã H, huyện A, tỉnh An Giang.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng thời gian từ năm 2016 thì bất đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, ông B có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thường xuyên hành hung, đánh đập bà. Cuộc sống hôn nhân ngày càng trầm trọng khi ông B hành hạ trong suốt thời gian dài, bà không thể chịu đựng cuộc sống hôn nhân như thế nên đã ly thân với ông B từ 03 năm nay. Hiện nay bà không còn tình cảm với ông B nữa, yêu cầu xin được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.
Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên:
1/ Nguyễn Thị Minh T, sinh ngày: 10/3/1995;
2/ Nguyễn Phát H, sinh ngày: 13/6/1998. Hai cháu đã trưởng thành, cháu T đã có gia đình cuộc sống ổn định, cháu H đang sống với bà và tự lập được nên không có yêu cầu về con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Nguyễn Văn B trình bày: Quan hệ hôn nhân của ông và bà L là do mai mối được gia đình đồng ý nên tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào năm 2001 tại UBND xã H như bà L trình bày.
Trong cuộc sống vợ chồng thì cũng có cự cãi đôi chút, ông thừa nhận trong lúc nóng giận có đánh bà L một hai cái rồi thôi nhưng xét chung vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì trầm trọng. Ông không biết vì lý do gì mà đến năm 2016 thì bà L bỏ nhà ra đi không tin tức, ông cũng không thể liên lạc được với bà L nên ly thân từ thời gian đó đến khi nhận được thông báo của Tòa án về việc bà L nộp đơn xin ly hôn thì ông mới liên lạc được với bà L, ông đã chủ động hàn gắn tình cảm nhưng bà L không đồng ý chung sống lại.
Bản thân ông thừa nhận sai khi có lời lẽ xúc phạm, hành hung bà L và xin lỗi vì đã có việc làm chưa đúng với vợ con. Riêng việc có tình cảm với người phụ nữ khác là không có. Xét thấy, tình cảm đối với bà L vẫn còn nên không đồng ý ly hôn với bà Huỳnh Thị L.
Về quan hệ con chung: Có 02 con chung họ tên năm sinh đúng như lời bà L trình bày. Hai cháu đã trưởng thành và sống tự lập, ông không có yêu cầu giải quyết.
Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Các tài liệu, chứng cứ các đương sự cung cấp cho Tòa án đã được công bố tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ.
Tại phiên toà, bà L bảo lưu ý kiến đã trình bày, không có yêu cầu bổ sung, không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ khác. Ông B vắng mặt nhưng có đơn xin không tham gia phiên tòa nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông B theo thủ tục chung.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Huỳnh Thị L; về quan hệ con chung: có hai con chung nhưng đã trưởng thành, sống tự lập, các đương không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết; tài sản chung, nợ chung xác định không có nên không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Hôn nhân của bà L và ông B có đăng ký kết hôn theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Bà L yêu cầu xin được ly hôn, ông B có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa phương thuộc ấp P, xã H, huyện A, tỉnh An Giang nên yêu cầu xin ly hôn của bà L được Tòa án thụ lý giải quyết phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình và các Điều 29, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án đã tiến hành hòa giải, mở phiên họp công khai tài liệu, chứng cứ theo quy định. Tại phiên tòa, các đương sự không có yêu cầu bổ sung hay giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ khác.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị L xin được ly hôn với ông Nguyễn Văn B, nguyên nhân chủ yếu từ việc ông B nhiều lần hành hung, đánh đập và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc nên bà L không tiếp tục chung sống với ông B mà bỏ đi nơi khác sống từ năm 2016 cho đến nay, điều này cũng được ông B thừa nhận có hành hung bà L trong lúc nóng giận và đã ly thân từ năm 2016 đến nay.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã động viên hàn gắn tình cảm cho bà L và ông B chung sống lại với nhau nhưng bà L không đồng ý mà cương quyết ly hôn.
Ông B không đồng ý ly hôn vì còn tình cảm với bà L nhưng từ những tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự có trong hồ sơ vụ án cho thấy quan hệ hôn nhân của bà L và ông B có nhiều mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã không còn do thời gian ly thân đã lâu, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục nên yêu cầu xin ly hôn của bà L là có căn cứ chấp nhận.
[3] Về quan hệ con chung: Có hai con chung như đương sự đã trình bày. Con chung đã trưởng thành, sống tự lập, các đương không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Đương sự không có yêu cầu nên không đề cập xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Bà L là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Các Điều 51, 53, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Các Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Xư: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.
Về án phí: Bà Huỳnh Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: TU/2016/0010937 ngày 10/12/2018 (bà L đã nộp đủ).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/3/2019) các bên có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo của các đương sự vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).
Bản án 107/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn
Số hiệu: | 107/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về