Bản án 107/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 107/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 110/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2018/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1978, tại thôn HT, xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: thôn HT, xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C (đã chết) và bà Phạm Thị V; có vợ là Bùi Thị S, sinh năm 1981 và 03 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/8/2018, đến ngày 30/8/2018 chuyển tạm giam, bị cáo trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Những người chứng kiến:

Ông Phạm Đăng H, sinh năm 1960; anh Phạm Duy H1, sinh năm 1985, đều trú tại thôn HT, xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình (những người chứng kiến đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 11 giờ 15 ngày 27/8/2018, tổ công tác Công an huyện T1 tuần tra tại khu vực thôn AN, xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình phát hiện Phạm Văn T có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác yêu cầu T về trụ sở UBND xã TB để làm việc. Tại đây trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến, T tự nguyện giao nộp trong lòng bàn tay trái 01 gói, được gói bằng giấy mềm màu trắng, mở ra bên trong có 05 gói, đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở cả 05 gói ra bên trong đều có chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận đó là 05 gói ma túy, loại Heroine, T vừa mua được của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi, không rõ tên tuổi, ở khu vực Chợ HT, xã TB, huyện T1 về sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý và niêm phong số vật chứng thu giữ. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T1 tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của T nhưng không thu giữ gì.

Trong quá trình điều tra, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Lời khai của những người làm chứng:

Ông Phạm Đăng H và anh Phạm Duy H1 trình bày: Vào 11 giờ 15 ngày 27/8/2018, tại UBND xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình chúng tôi được chứng kiến việc cơ quan công an kiểm tra người anh Phạm Văn T, sinh năm 1978, trú tại thôn HT, xã TB, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chúng tôi thấy anh T đã tự giác giao nộp cho cơ quan công an giao nộp trong lòng bàn tay trái 01 gói, được gói bằng giấy mềm màu trắng, mở ra bên trong có 05 gói, đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở cả 05 gói ra bên trong đều có chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận đó là 05 gói ma túy, loại Heroine, T vừa mua với giá 250.000 đồng để mang về sử dụng. Sau đó cơ quan công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng thu giữ được và làm các thủ tục khác theo quy định của pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định số 326/KLGĐ-PC09 ngày 27/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì mẫu số A1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,3783 gam; Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Tại Cáo trạng số 109/CT-VKSTT ngày 31/10/2018, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình quyết định truy tố Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Vị đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, căn cứ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Kiểm sát viên đề nghị: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, vị đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị xử lý về xử lý vật chứng và án phí.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội, bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T1, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Văn T đều khai nhận: Hồi 11 giờ 15 ngày 27/8/2018, tổ công tác Công an huyện T1 tuần tra phát hiện Phạm Văn T có biểu hiện nghị vấn. Tổ công tác yêu cầu T về trụ sở UBND xã TB để làm việc. Tại đây trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương và những người chứng kiến, T tự nguyện giao nộp 01 gói, được gói bằng giấy mềm màu trắng, mở ra bên trong có 05 gói, đều được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở cả 05 gói ra bên trong đều có chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận đó là 05 gói ma túy, loại Heroine, T vừa mua được của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi, không rõ tên tuổi, ở khu vực Chợ HT, xã TB, huyện T1 về sử dụng cho bản thân.

Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Văn T phù hợp và được chứng minh bằng: Lời khai của những người chứng kiến là ông Phạm Đăng H và anh Phạm Duy H1; Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Tổ công tác Công an huyện T1 lập hồi 11h30 phút ngày 27/8/2018; Kết luận giám định về khối lượng, loại ma túy; Biên bản khám xét và những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Như vậy, bị cáo Phạm Văn T là người đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 05 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,3783 gam. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đíc mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 đến 05 năm:

c, Heroine, Cocain, Methaamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 đến 05 gam;

5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo Phạm Văn T mắc nghiện ma túy, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người đồng thời là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn khác cho xã hội, là mnguyên nhân lây truyền dịch bệnh HIV/AIDS; bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã vi phạm chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an, hành vi này gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự nên phải xử lý. Cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện. Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Hội đồng xét xử cũng xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T đều thành khẩn khai báo, do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Trong vụ án này: Bị cáo Phạm Văn T khai nhận mua ma túy của 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi, không rõ tên tuổi, ở khu vực Chợ HT, xã TB, huyện T1, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T1 không có cơ sở điều tra, xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Về số ma túy thu giữ cần tịch thu tiêu hủy sau giám định còn lại.

[7] Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 27/8/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,3665 gam ma túy loại Heroine tại mẫu A1 sau giám định còn lại. (Toàn bộ vật chứng có đặc điểm mô tả chi tiết trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/10/2018 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn n15 ngày, kể từ ngày tuyên án 20/11/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về