Bản án 107/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 107/2018/HS-ST NGÀY 07/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 07 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2018/TLST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 107/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn S; tên gọi khác: Không; sinh năm 1979; tại xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; con ông: Lò Văn H, sinh năm 1952 và con bà: Lò Thị K, sinh năm 1956; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Lò Thị L; sinh năm 1982 và có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/9/2018 đến ngày 10/9/2018 và bị tạm giam từ ngày 10/9/2018 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn Sơn: Bà Lò Thị Khánh H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên; có mặt.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Lò Thị S; sinh năm: 1985; địa chỉ: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 04/9/2018, Lò Văn S có gọi điện cho một người tên là Lò Thị S, là người S đã quen biết từ trước, trú tại bản N, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên để trao đổi với người này, nội dung cuộc điện thoại trao đổi nhằm mục đích mua bán ma túy. S đã hỏi người phụ nữ “Có Heroine bán không?”; người phụ nữ tên S trả lời “Có”; S nói tiếp “Bán cho tôi hai trăm nghìn đồng”; S trả lời “Lên lấy đi”. Sau khi trao đổi với S xong; S đi bộ từ nhà đến gần nhà S thì thấy S đi ra ngoài cổng. Khi thấy S, S chủ động hỏi “Chị bán cho em hai trăm nghìn đồng Heroine?”; S đồng ý rồi nhận từ S 200.000đ và đưa lại cho S 02 gói nhỏ Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng; khi trao đổi mua bán không có ai tham gia, không cân xác định khối lượng. Sau khi mua được 02 gói Heroine S đi về nhà đến khu vực bản Sái Ngoài, xã Quài Cang thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ 02 gói nhỏ Heroine; tạm giữ 01 điện thoại di động. Lò Văn S cùng vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa tang vật về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 02 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ của bị cáo Lò Văn S được xác định khối lượng 0,19 gam và trích 0,08 gam làm mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra đã trích mẫu giám định và ra Quyết định trưng cầu giám định số: 166, ngày 05/9/2018. Tại bản Kết luận giám định số: 786/GĐ-PC09 ngày 15/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn S là chất ma túy: loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 90/QĐ-VKS-HS ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn S về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa Vị kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 để xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: 0,11 gam chất bột màu trắng Heroine. Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAV màu đen viền xanh bán sung quỹ Nhà nước. Theo quy định tại Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đưa ra luận cứ và đề nghị: Đề nghị áp dụng theođiểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017, xét về nhân thân điều kiện hoàn cảnh phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức áp thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo, đề nghị không phạt bổ sung và miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo S nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn S thừa nhận: Vào hồi 12 giờ ngày 04/9/2018, bị cáo đã mua được 02 gói nhỏ Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng với giá 200.000đ; với mục đích để sử dụng dần vì bị cáo nghiện ma túy. Bị cáo mua của một người phụ nữ tên là S mà bị cáo quen từ trước. Khi mua không cân xác định khối lượng và cũng không có ai tham gia cùng. Khi bị phát hiện bắt quả tang, Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng, khi mở niêm phong xác định khối lượng thì bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ là 0,19 gam Heroine được xác định là hoàn toàn chính xác. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng và tại phiên tòa. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lò Văn S đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017. Nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo: Khối lượng Heroine bị thu giữ của Lò Văn S là 0,19 gam; nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;số ma túy đã bị thu giữ bị cáo thừa nhận tàng trữ nhằm mục đích sử dụng dần; bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên. Bị cáo được gia đình cho ăn học hết lớp 06/12, thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Bị cáo chung sống như vợ chồng cùng với chị Lò Thị L và có 02 người con. Năm 2008 nghiện chất ma túy; năm 2012 đến năm 2016 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục xã hội số 1 huyện Ba Vì - Hà Nội. Đến ngày 04/9/2018 bị Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo bắt tạm giam về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 10/9/2018 bị khởi tố. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa bị cáo có khai có ông nội tên là Lò Văn D được tặng Huân chương kháng chiến, tuy nhiên căn cứ vào quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số: 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/200 và Công văn số: 148/2002/KHXX ngày 30/9/2002 và Hội đồng xét xử làm rõ nhân thân của bị cáo tại phiên tòa thì thấy không phù hợp, vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo là người chồng, người cha của các con trong gia đình lẽ ra bị cáo phải chịu thương chịu khó, tu trí làm ăn cùng gia đình và là tấm gương để các con bị cáo noi theo. Nhưng vì không vượt qua khỏi những cám dỗ và rủ rê của bạn bè; vì muốn thể hiện bản thân nên bị cáo đã mắc phải tệ nạn nghiện ma túy vào năm 2008. Bị cáo đã được áp dụng biện pháp cai nghiện nhưng không lấy đó làm cơ hội để chấm dứt với ma túy mà còn tiếp tục tái nghiện, chính vì vậy vào ngày 04/9/2018 bị cáo đã có hành vi mua ma túy để tàng trữ trái phép nhằm mục đích sử dụng, bị cáo là người có nhân thân xấu. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội để giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[6] Theo khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Đối với đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 của người bào chữa với tình tiết ông nội bị cáo là Lò Văn D được tặng Huân chương kháng chiến, Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số: 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 và Công văn số: 148/2002/KHXX ngày 30/9/2002 về áp dụng tình tiết người thân có công với cách mạng và làm rõ nhân thân của bị cáo tại phiên tòa thì thấy không phù hợp, vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[8] Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo Lò Văn S, Hội đồng xét xử xét thấy là chưa phù hợp, bởi lẽ; bị cáo nghiện ma túy, tại phiên tòa bị cáo cũng đã nhận thức rõ việc nghiện ma túy của mình là vi phạm pháp luật và làm ảnh hưởng đến gia đình. Bởi vậy, để có tác dụng răn đe, phòng ngừa và cũng là cơ hội để bị cáo cai nghiện ma túy, thì hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

[9] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Lò Văn S từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.

[10] Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai do bị cáo mua của Lò Thị S. Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nhưng không thu giữ được gì, đã cho bị cáo đối chất với Lò Thị S nhưng S không thừa nhận; ngoài lời khai của bị cáo không có lời khai nào khác chứng minh Lò Thị S có hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[10] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015 để xử lý vật chứng như sau: Cần tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: 0,11 gam chất bột màu trắng Heroine. Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAV màu đen viền xanh do bị cáo đã thừa nhận sử dụng điện thoại để liên lạc với Lò Thị S mua ma túy vì vậy xác định là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.

[11] Về án phí: Theo quy định tại Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo đủ điều kiện để miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Trong quá trình điều tra, truy tố thấy rằng: Bị cáo không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn S 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2018.

3. Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng: 0,11 gam chất bột màu trắng Heroine. Tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu HOTWAV màu đen viền xanh bán sung quỹ Nhà nước. Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo Phiếu nhập kho vật chứng số PNKVC12 ngày 26/10/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lò Văn S được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2018/HS-ST ngày 07/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:107/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về