Bản án 107/2017/HNGĐ-ST ngày 29/12/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 107/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 191/2017/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2017 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2017/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số: 87/2017/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2017 và Thông báo (về việc thay đổi thời gian xét xử) số: 07/2017/TB-TA ngày 04 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990. Có mặt.

Địa chỉ: ấp BP, xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

2.Bị đơn: Anh Trương Công B, sinh năm 1992. Vắng mặt.

Địa chỉ: ấp ML, xã MHH, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày và có ý kiến như sau:

-Về hôn nhân: Giữa chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B do quen biết tìm hiểu nhau năm 2012 và tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2013, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn vào ngày 26/3/2013 tại Ủy ban nhân dân xã MHH, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chị T và anh B có tổ chức lễ cưới vào năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn, rồi phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Đến tháng 2 năm 2016, chị T đã tự chuyển về sống ở nhà mẹ đẻ tại ấp BP, xã BH, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang và ly thân từ đó đến nay. Nhận thấy tình cảm không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với Anh Trương Công B.

-Về con chung: Không có nên chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Anh Trương Công B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng Anh Trương Công B không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Theo biên bản xác minh ngày 19/9/2017 của Công an xã MHH, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang thể hiện Anh Trương Công B có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp ML, xã MHH, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, hiện nay đương sự đã đi làm nơi khác khoảng ba tháng nay nhưng cũng có khi đi về.

- Tại phiên tòa:

+ Chị Nguyễn Thị T trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên nhận định:

[2] Về tố tụng: Anh Trương Công B đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng Anh Trương Công B vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Anh Trương Công B.

[3] Về hôn nhân: Giữa chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B là hôn nhân hợp pháp bởi anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014. Xem xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của anh chị đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẩn mà không thể hàn gắn được do giữa anh chị không có sự cảm thông cho nhau. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, Anh Trương Công B không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chị Nguyễn Thị T được ly hôn với Anh Trương Công B.

[4] Về nuôi con chung: Không có nên chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày giữa chị và Anh Trương Công B không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Trương Công B không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án, vắng mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, nên không đối chất được về tài sản chung và nợ chung có hay không, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 48 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và Anh Trương Công B.

2.Về nuôi con chung: Không có con chung.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

4.Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0015388 ngày 25 tháng 4 năm 2017 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ.

5.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng Anh Trương Công B vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

593
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 107/2017/HNGĐ-ST ngày 29/12/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:107/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về