Bản án 1062/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1062/2020/HNGĐ-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 161/2020/TLST-HNGĐ ngày 19/02/2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 284/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 266/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1982 (vắng mặt có đơn).

Địa chỉ: đường 1, Tổ 2, khu phố A, phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường 1, Tổ 2, khu phố A, phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/02/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Hai trình bày:

Ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2003, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 13/6/2003 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32, quyển số 01/2003.

Vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến năm 2012 thì bà N bỏ đi biệt tích cho tới nay. Ông H nhiều lần tìm cách liên lạc nhưng không được. Năm 2019, ông H có làm Đơn yêu cầu tuyên bố bà Nguyễn Thị N mất tích nộp cho Tòa án nhân dân Quận 9. Ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân Quận 9 ban hành Quyết định giải quyết việc dân sự số 500/2020/QĐST/VDS tuyên bố bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1983, địa chỉ cư trú cuối cùng: đường 1, Tổ 2, khu phố A, phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh mất tích.

Do đó, ông H yêu cầu ly hôn với bà N.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 23/8/2004. Ông Nguyễn Văn H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung, không yêu cầu bà Nguyễn Thị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Nguyễn Văn H trình bày ông và bà N không có. Nợ chung: Ông Nguyễn Văn H trình bày ông và bà N không có.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bị đơn bà Nguyễn Thị N và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị N: Vắng mặt không có lý do.

* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 9:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Thẩm phán thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn đúng quy định của pháp luật. Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Xác định đúng người tham gia tố tụng, Tòa án có vi phạm về thời hạn xét xử vụ án. Quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử thực hiện đúng quyền hạn theo quy định của pháp luật.

- Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng quy định pháp luật, tuân theo nội quy phiên tòa. Đương sự có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bị đơn bà Nguyễn Thị N; Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 23/8/2004. Ông Nguyễn Văn H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung, bà Nguyễn Thị N không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, về nợ chung: Tòa án không xem xét.

Án phí hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời khai của đương sự trong hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn là bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1983, địa chỉ cư trú cuối cùng: đường 1, Tổ 2, khu phố A, phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh nên theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 9.

- Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Năm.

- Về yêu cầu của đương sự:

Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ:

- Ông H và bà N có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 13/6/2003 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32, quyển số 01/2003 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

- Vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến năm 2012 thì bà N bỏ đi biệt tích cho đến nay. Ông H nhiều lần tìm cách liên lạc nhưng không được. Năm 2019, ông H có làm Đơn yêu cầu tuyên bố bà Nguyễn Thị N mất tích nộp cho Tòa án nhân dân Quận 9. Ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân Quận 9 ban hành Quyết định giải quyết việc dân sự số 500/2020/QĐST/VDS tuyên bố bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1983, địa chỉ cư trú cuối cùng: đường 1, Tổ 2, khu phố A, phường F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh mất tích. Thực tế, từ năm 2012 cho đến nay ông H và bà N đã tách rời hoàn toàn cuộc sống chung. Bà N bỏ đi không rõ lý do, không liên lạc về cho ông H và con chung Nguyễn Thành Đ. Quá trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho bà N đến Tòa án để tham gia tố tụng. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà N vẫn vắng mặt không có lý do, thể hiện bà N không coi trọng tình nghĩa vợ chồng.

Xét mục đích hôn nhân giữa ông H và bà N không đạt được. Do đó, việc ông Hi yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân với bà N là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 23/8/2004. Ông Nguyễn Văn H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung, không yêu cầu bà Nguyễn Thị N cấp dưỡng nuôi con. Xét việc giao con cho ai nuôi là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con. Việc ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng người con Hội đồng xét xử xét thấy: Tại Tờ trình bày nguyện vọng ngày 10/3/2020 của cháu Nguyễn Thành Đ, cháu có nguyện vọng muốn được ở với ba. Do đó, việc ông H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng người con chung là đảm bảo sự phát triển ổn định về thể chất, tinh thần cho người con và hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ông H không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con vì ông có đủ khả năng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông H trình bày ông và bà N không có tài sản chung, không có nợ chung. Tại phiên tòa, bà N vắng mặt. Do đó, Tòa án không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 3 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Nguyễn Thị N.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 32, quyển số 01/2003 ngày 13/6/2003 do Ủy ban nhân dân F, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 23/8/2004. Ông Nguyễn Văn H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người con chung, bà Nguyễn Thị N không cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Nếu lợi dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì quyền lợi mọi mặt của người con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức tiền cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền thăm nom, chăm sóc của người không trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tòa án không giải quyết.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải nộp án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông Nguyễn Văn H đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0013242 ngày 17/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 9. Ông Nguyễn Văn H đã nộp đủ án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Trường hợp, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1062/2020/HNGĐ-ST ngày 02/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:1062/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về