Bản án 106/2021/HNGĐ-ST ngày 01/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 106/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 01 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 675/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Hoài A, sinh năm 1962 (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1957 (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: đường L, Tổ A, khu phố B, phường Q, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Hoài A và ông Nguyễn Văn S là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 02-2001 do Ủy ban nhân dân Phường F, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 21/8/2001.

Trong thời gian chung sống, vợ chồng bà hạnh phúc được 15 năm đầu, sau đó vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng quan điểm sống, lối sống; ông S không có sự quan tâm chia sẻ, cả hai không hiểu nhau, việc mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên xảy ra, ông S không cho bà về nhà chung sống nữa, mỗi lần gặp bà là ông S chửi mắng thậm tệ, bà đã cố gắng chịu đựng để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được. Nay, bà thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông S để ổn định cuộc sống.

- Về con chung: Bà và ông Sơn có 01 con chung tên là Nguyễn Thị Hồng H, sinh ngày 24/4/1987, hiện con đã trưởng thành và đã lập gia đình riêng nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

- Về tài sản chung: Ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà A xác nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà A cam kết không còn tài liệu, chứng cứ nào để cung cấp cho Tòa án và cam kết chỉ nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân Quận 7, không nộp đơn ly hôn tại Tòa án nào khác; việc ly hôn không nhằm trốn tránh nghĩa vụ khác.

2. Bị đơn - ông Nguyễn Văn S:

Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng, thời hạn giải quyết vụ án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, nguyên đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về pháp luật tố tụng dân sự:

[2] Bà Lê Thị Hoài A khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với ông Nguyễn Văn S; địa chỉ nơi cư trú: đường L, Tổ A, khu phố B, phường Q, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Xét, quan hệ tranh chấp là tranh chấp về ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên toà nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về pháp luật nội dung:

[5] Xét yêu cầu của bà Lê Thị Hoài A về việc yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn S, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[6] Bà A và ông S là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 02-2001 ngày 21/8/2001 của Ủy ban nhân dân Phường F, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh là đúng với quy định của pháp luật nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nay, bà A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[7] Theo bà A trình bày thì trong thời gian chung sống, vợ chồng bà hạnh phúc được 15 năm, sau đó vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng quan điểm sống, lối sống; ông S không có sự quan tâm chia sẻ, cả hai không hiểu nhau, bà đã cố gắng chịu đựng để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được. Nay, bà thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông S để ổn định cuộc sống.

[8] Tòa án đã tiến hành xác minh đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ phường Tân Quy, Quận 7 để tham khảo nhưng kết quả không thể hiện việc mâu thuẫn của vợ chồng bà A. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã động viên, phân tích để vợ chồng bà A hàn gắn tình cảm, đoàn tụ gia đình nhưng bà A cương quyết giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông S.

[9] Đối với ông S, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông S đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ, nhưng ông không đến Tòa giải quyết vụ án, ông cũng không có văn bản phản đối yêu cầu của bà A và không đưa ra giải pháp nào để cải thiện mối quan hệ vợ chồng, chứng tỏ ông cũng không quan tâm đến yêu cầu ly hôn của bà A và không có thiện chí hòa giải để đoàn tụ gia đình.

[10] Như vậy, ông S đã không thực hiện nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự nên căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì trình bày của bà A được thừa nhận mà không cần phải chứng minh. Xét thấy, hôn nhân giữa bà A và ông S đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[11] Về con chung: Bà A và ông S có 01 con chung tên Nguyễn Thị Hồng H, sinh ngày 24/4/1987 theo Giấy khai sinh số 257, quyển số 01-86 ngày 26/5/1987. Như vậy, con chung của bà A và ông S đã thành niên và có khả năng lao động, đồng thời bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung nên Hội đồng xét xử không xét.

[12] Về tài sản chung: Bà A xác nhận tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[13] Về nợ chung: Bà A xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[14] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[15] Về án phí dân sự sơ thẩm: Án phí về tranh chấp hôn nhân và gia đình do nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 144, Điều 147, khoản 3 Điều 208, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56 và Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật Phí và lệ phí Tòa án năm 2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Hoài A:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Hoài A được ly hôn với ông Nguyễn Văn S.

(Theo Giấy chứng nhận kết hôn quyển số 02-2001 ngày 21/8/2001 của Ủy ban nhân dân Phường F, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh) - Về con chung: Bà A và ông S có 01 con chung tên Nguyễn Thị Hồng H, sinh ngày 24/4/1987, hiện đã thành niên và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng do bà A phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2019/0041784 ngày 05/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, như vậy bà A đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bà A có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; ông S có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2021/HNGĐ-ST ngày 01/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:106/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về