Bản án 106/2020/HSST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 106/2020/HSST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19/11/2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 103/2020/TLST - HS ngày 30/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Tuấn A (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 01/5/1999, tại huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai; Nơi cư trú: Tổ 5, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Huỳnh và bà Lý Thị Xuân; Vợ, con: Chưa có Tiền án: Không Tiền sự: Quyết định số 0011813 ngày 20/6/2020 của Công an phường Kim Tân xử phạt Nguyễn Tuấn A số tiền 1.500.000 đồng về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/10/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai - Có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

* Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị Lan - Sinh năm 1999 Địa chỉ: Thôn Khe Tôm, xã Tân Thượng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Phú Hùng - Sinh năm 1986 Địa chỉ: Tổ 2, thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 02 giờ 40 phút ngày 16/8/2020, Nguyễn Tuấn A rủ chị Nguyễn Thị Lan (sinh năm 1999, trú tại xã Tân Thượng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai) đi xe taxi từ nhà nghỉ Như Ý thuộc đường Nhạc Sơn, phường Cốc Lếu, thành phố Lào Cai xuống nhà anh Đặng Đình Đô (sinh năm 1982, trú tại tổ 29, phường Pom Hán, thành phố Lào Cai) để đòi số tiền 600.000 đồng mà anh Đô và anh Đặng Đình Thịnh (sinh năm 1984) là anh trai ruột của anh Đô nợ Nguyễn Tuấn A. Đến nơi, Nguyễn Tuấn A và chị Lan đòi số tiền trên thì anh Đô và anh Thịnh quanh co không ai nhận nợ Nguyễn Tuấn A. Do không đòi được tiền và biết chị Lan có chiếc điện thoại Iphone 11, màu xanh có giá trị nên Nguyễn Tuấn A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên của chị Lan để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Tuấn A nói với chị Lan “cho anh mượn điện thoại gọi cuộc”, chị Lan đồng ý và đưa điện thoại cho Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Tuấn A nói với chị Lan “ngồi đây chờ anh”. Sau đó Nguyễn Tuấn A cầm điện thoại đi lên xe taxi chờ sẵn ở ngoài cổng đi về thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai bán cho anh Nguyễn Phú Hùng (sinh năm 1986, trú tại tổ 2, thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) là chủ cửa hàng điện thoại “Hùng Iphone” với giá 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Sau đó Nguyễn Tuấn A đi xe khách về thành phố Hà Nội và tiêu xài hết số tiền trên. Cùng ngày chị Nguyễn Thị Lan đã trình báo sự việc đến Công an phường Pom Hán, thành phố Lào Cai. Ngày 20/8/2020, Công an phường Pom Hán triệu tập Nguyễn Tuấn A đến làm việc. Tại đây bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai đã tiến hành thu giữ chiếc điện thoại di động Iphone 11, màu xanh của chị Nguyễn Thị Lan tại cửa hàng điện thoại của anh Nguyễn Phú Hùng.

Ngày 24/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai yêu cầu định giá tài sản số 665. Tại kết luận định giá tài sản số 65 ngày 28/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Lào Cai kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu xanh ngọc, bản 64G, đã qua sử dụng có giá là 15.502.950đ (Mười lăm triệu năm trăm linh hai nghìn chín trăm năm mươi đồng) Cáo trạng số 100/CT - VKS ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà bị cáo Nguyễn Tuấn A thừa nhận toàn bộ hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình như kết luận điều tra của cơ quan điều tra và bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù. Không đề nghị phạt bổ sung đối với bị cáo; tuyên án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị Lan đã nhận lại tài sản không có yêu cầu bồi thường gì. Vì vậy không xem xét giải quyết.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Phú Hùng 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng) Bị cáo Nguyễn Tuấn A thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa bị hại Nguyễn Thị Lan vắng mặt, quá trình điều tra chị Lan đã nhận lại tài sản và không có ý kiến gì. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ti phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Phú Hùng vắng mặt, quá trình điều tra anh Hùng yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn A phải bồi thường cho anh 10.800.000 đồng (Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Xét yêu cầu bồi thường của anh Nguyễn Phú Hùng là có căn cứ cần chấp nhận.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Ti phiên toà bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, họ đã có lời khai tại Cơ quan điều tra được thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Xét thấy sự vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không trở ngại cho việc xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo và giải quyết cho việc bồi thường thiệt hại. Căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tuấn A: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận. Ngày 16/8/2020 do không đòi được tiền và biết chị Lan có chiếc điện thoại Iphone 11, màu xanh có giá trị nên Nguyễn Tuấn A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên của chị Lan để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, sau đó Nguyễn Tuấn A cầm điện thoại đi lên xe taxi đi về thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai bán cho anh Nguyễn Phú Hùng với giá 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng). Sau đó Nguyễn Tuấn A đi xe khách về thành phố Hà Nội và tiêu xài hết số tiền trên. Ngày 20/8/2020, Công an phường Pom Hán triệu tập Nguyễn Tuấn A đến làm việc.

[3] Về tính chất mức độ hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Tuấn A là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có sức khỏe, hiểu biết pháp luật, xã hội nhưng vào ngày 16/8/2020 bị cáo Nguyễn Tuấn A đã lợi dụng quan hệ quen biết để hỏi mượn điện thoại gọi, chị Lan tin tưởng cho Nguyễn Tuấn A mượn, sau đó Nguyễn Tuấn A đã chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của chị Nguyễn Thị Lan có giá trị là 15.502.950đ (mười lăm triệu năm trăm linh hai nghìn chín trăm năm mươi đồng) để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của Nguyễn Tuấn A là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lào Cai và tạo dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, bị cáo hiện đang có 01 tiền sự về hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung. Xong xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. vì vậy cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người sử dụng ma túy, không có tài sản để đảm bảo thi hành án, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Phú Hùng yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền là 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng). Xét yêu cầu bồi thường của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có căn cứ cần chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/10/2020.

2.Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A phải bồi thường cho anh Nguyễn Phú Hùng 10.800.000đ (Mười triệu, tám trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 540.000 đồng (Năm trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luât.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2020/HSST ngày 19/11/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:106/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về