Bản án 106/2020/HSST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 106/2020/HSST NGÀY 14/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 94/2020/HSST ngày 06 tháng 7 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Hồ Viết Thanh B - sinh ngày: …../1990 tại tỉnh Đ; nơi cư trú: Tổ …, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch; Việt Nam; con ông Hồ Viết N (c) và bà Nguyễn Thị T1 (s); đã có vợ và 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 30/06/2009 bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng tuyên phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự. Chấp hành án xong và về lại địa phương ngày 23/3/2010; các quyết định khác của bản án đã thi hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/02/2020, có mặt tại phiên tòa.

2/ Nguyễn Hồng Đ - sinh ngày: ……./1987 tại tỉnh Đ; nơi cư trú: Tổ …, phường C, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch; Việt Nam; con ông Nguyễn T2 (s) và bà Nguyễn Thị T3 (s); đã có vợ và 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/02/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T1 - sinh năm: 1969; nơi cư trú: Tổ …, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị Thanh T4 - sinh năm: 1992; nơi cư trú: Tổ …, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

2. Chị Lê Thị Thanh H - sinh năm: 1996; nơi cư trú: Đường H, quận H, thành phố Đà Nẵng (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 21 giờ 15 phút ngày 08/02/2020, tại khu vực lề đường phía bên trái của cổng phụ số 2 Công viên 29/3 đối diện nhà số.. đường P, thuộc phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, tổ công tác 911- Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp cùng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Hồ Viết Thanh B và Nguyễn Hồng Đ có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.

Kiểm tra phát hiện và thu giữ ở dưới đất tại vị trí Hồ Viết Thanh B bị bắt có 01 gói nilong kích thước 03cm x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong kí hiệu G1), 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy); B khai là ma túy tổng hợp dạng đá của B đã mua với số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để sử dụng.

Tiếp tục kiểm tra phát hiện và thu giữ dưới đất cách vị trí của Nguyễn Hồng Đ bị bắt có 01 bao thuốc lá hiệu “Sài Gòn” bên trong có 01 gói nilong kích thước 03cm x 03cm có chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong kí hiệu G2), 01 vỏ bao nilong có kích thước 04cm x 07cm, 01 nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy); Nguyễn Hồng Đ khai nhận là ma túy đá của Đ đã mua với số tiền là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sử dụng.

Tang vật, tài sản tạm giữ:

- 01 (một) gói ni lông có kích thước 03 x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong kí hiệu G1;

- 01 (một) gói ni lông có kích thước 03 x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng, được niêm phong kí hiệu G2;

- 01 (một) điện thoại đi động hiệu Sam Sung màu vàng có số imei: 35641275124492 có gắn sim số 0935570… của Nguyễn Hồng Đ;

- 01 (một) điện thoại đi động hiệu Itel màu xanh có số imei: 352724100791606 có gắn 02 sim số 0762658… và 0774476… của Hồ Viết Thanh B;

- Số tiền: 300.000 đồng của B sử dụng để mua ma túy;

- Số tiền 400.000 đồng của Đ, trong đó Đ dùng 200.000 đồng để mua ma túy;

- 02 (hai) nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy);

- 01 (một) vỏ bao ni lông kích thước 04cm x 07 cm;

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu ‘SAIGON ’’ màu bạc;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Honda wave màu đỏ mang biển số 43S7- …. của Hồ Viết Thanh B sử dụng;

- 01 đĩa DVD ghi lại nội dung hình ảnh, diễn biến sự việc bắt quả tang Nguyễn Hồng Đ và Hồ Viết Thanh B (được trích xuất từ Camera do Công an phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng cung cấp, lưu cùng hồ sơ gốc của vụ án).

Ngày 09/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hồ Viết Thanh B và Nguyễn Hồng Đ nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu hay tài sản gì.

túy.

Kết quả test nước tiểu thì B dương tính với ma túy, Đ âm tính với chất ma Tại Kết luận giám định số: 45/GĐ - MT ngày 12/02/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Tinh thể rắn màu trắng trong 01 gói được niêm phong ký hiệu G1 và G2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu tinh thể G1: 0,123 gam, G2: 0,186 gam.

Kết quả điều tra đấu tranh lấy lời khai và hỏi cung, bị can Hồ Viết Thanh B khai mua ma túy của Nguyễn Hồng Đ, còn bị can Nguyễn Hồng Đ khai mua ma túy của Hồ Viết Thanh B. Không ai thừa nhận là người đã bán trái phép chất ma túy cho người kia.

Kết quả tiến hành đối chất giữa Hồ Viết Thanh B với Nguyễn Hồng Đ cả hai bị cáo đều giữ nguyên lời khai; bị cáo Hồ Viết Thanh B trình bày đã sử dụng điện thoại của em vợ là Lê Thị Thanh H để liên lạc trước đến Điệp hỏi mua ma túy của Đ; còn bị cáo Nguyễn Hồng Đ khai sử dụng điện thoại của mình để liên lạc trước đến B hỏi mua ma túy. Không ai thừa nhận là người đã bán trái phép chất ma túy.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã ra quyết định trưng cầu giám định yêu cầu: Xác định dấu vết vân tay trên 01 (một) vỏ bao trên thuốc lá hiệu Sài Gòn màu bạc (SAIGON SILVER) và 01 (một) vỏ bao nylong kích thước 4 x 7cm. Tại Kết luận giám định số: 08/GĐ - ĐV ngày 28/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Dấu vết đường vân ký hiệu A1, A2 trên mẫu cần giám định không đủ yếu tố giám định”.

Qua điều tra cho thấy, vào năm 2006, anh Đỗ Oai H1 (sinh năm: 1965; nơi ĐKHKTT: Đường H, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng) đứng tên chủ sở hữu trên giấy đăng ký xe mô tô hiệu Honda wave màu đỏ, biển số 43S7 - …., số khung: RPHWCHDXM6H090973, số máy: RPTDS153FMH00090973. Sau đó, anh Hùng bán lại xe mô tô trên cho bà Nguyễn Thị T1 (mẹ của bị cáo B). Vào tối ngày 08/02/2020, bà T1 cho Hồ Viết Thanh B mượn xe mô tô trên làm phương tiện đi lại và không biết việc B sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội. Đến ngày 16/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê đã trả xe mô tô trên cho bà T1.

Từ những nội dung trên tại Cáo trạng số: 75/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Hồ Viết Thanh B, Nguyễn Hồng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Hồ Viết Thanh B, Nguyễn Hồng Đ thừa nhận đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng đúng với nội dung Cáo trạng đã truy tố bị cáo, biết hối lỗi về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét việc thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, hoàn cảnh gia đình để giảm nhẹ hình phạt, tạo điều kiện cho các bị cáo sớm được trở về với gia đình.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T1 trình bày: Xe mô tô hiệu Honda wave màu đỏ, biển số 43S7 - 6380, số khung: RPHWCHDXM6H090973, số máy: RPTDS153FMH00090973 là do tôi mua của anh Đỗ Oai H1 nhưng chưa làm thủ tục đăng ký sang tên chủ sở hữu. Vào tối ngày 08/02/2020, tôi có cho con trai là Hồ Viết Thanh B mượn để đi lại, tôi không biết B đã sử dụng để đi mua ma túy. Hiện nay, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho tôi, tôi không có yêu cầu gì thêm.

Người làm chứng chị Nguyễn Thị Thanh T4 trình bày: Vào khoảng 18h30' ngày 08/02/2020, chồng tôi anh Hồ Viết Thanh B có chở tôi đến nhà bà Ngoại tôi tại đường H, quận H, thành phố Đà Nẵng chơi. Tại đây, chúng tôi có gặp em Lê Thị Thanh H - là con của dì ruột tôi. Nhưng việc anh B có sử dụng điện thoại của H hay không thì tôi không biết. Sau đó trên đường về nhà, anh B có gặp anh Đ trước quán nhậu trên đường P, anh Đ có lì xì cho con của chúng tôi. Việc anh B gặp lại anh Đ sau khi chúng tôi đã về nhà thì tôi không biết.

Người làm chứng chị Lê Thị Thanh H trình bày: Trước đây tôi có sử dụng 01 điện thoại di động có gắn sim số 0766662… nhưng không cài mật khẩu. Nhà tôi và nhà bà Ngoại tôi (cũng là bà Ngoại của chị T4) liền kề sát cạnh nhau, có cùng số nhà. Vào tối ngày 08/02/2020, tôi để điện thoại sạc pin bên nhà bà Ngoại, còn tôi ở dưới nhà bếp nấu cơm cho gia đình mà không đi đâu cả. Tôi không gặp vợ chồng chị T4 vào tối ngày 08/02/2020 nên không có việc tôi đồng ý cho anh B mượn điện thoại để sử dụng. Nhưng tôi không biết anh B có tự lấy điện thoại của tôi sử dụng không vì điện thoại của tôi không cài mật khẩu. Hiện nay điện thoại của tôi không còn nữa do bị mất.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố các bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố các bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Viết Thanh B từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Đ từ 15 tháng đến 21 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của BLTTHS đề nghị:

+ Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật ma túy mẫu hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số: 45/GĐ-MT ngày 12/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 02 (hai) nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 (một) vỏ bao ni lông kích thước 04cm x 07 cm; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu ‘SAIGON SIVER’’ được đựng trong 01 (một) bì niêm phong số: 08/GĐ-MT ngày 28/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

+ Trả lại cho Hồ Viết Thanh B 01 (một) điện thoại đi động hiệu Itel màu xanh có số imei: 352724100791606 có gắn 02 sim số 0762658… và 0774476…, số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

+ Trả lại cho Nguyễn Hồng Đ 01 (một) điện thoại đi động hiệu Sam Sung màu vàng có số imei: 35641275124492 có gắn sim số 0935570793 và số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), nhưng cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy, do Đ khai mua ma túy của B, còn B khai mua ma túy của Đ; kết quả điều tra không có chứng cứ để kết luận ai là người bán ma túy. Do đó, không đủ căn cứ để kết luận truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Hồ Viết Thanh B, Nguyễn Hồng Đ về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Hồ Viết Thanh B, Nguyễn Hồng Đ khai nhận: Vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 08/02/2020, tại khu vực lề đường phía bên trái của cổng phụ số 2 Công viên 29/3 đối diện nhà số .. đường P, thuộc phường T, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Hồ Viết Thanh B cầm giữ trên tay 01 (một) nỏ thủy tinh và 01 (một) gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,123 gam; Nguyễn Hồng Đ cầm giữ trên tay 01 (một) bao thuốc lá hiệu ‘SAIGON SIVER’’ bên trong chứa 01 (một) nỏ thủy tinh và 01 (một) gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,186 gam thì bị Công an bắt phạm tội quả tang. Các bị cáo cất giữ ma túy trên người mục đích là để sử dụng.

[2] Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam với mục đích sử dụng như nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số: 75/CT- VKS ngày 19 tháng 5 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Các bị cáo là người trưởng thành, có đủ nhận thức và hiểu biết về tính nguy hiểm của chất ma túy đối với bản thân và cộng đồng, nhưng để thỏa mãn ham muốn của bản thân mà xem thường pháp luật. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, đe dọa nghiêm trọng đến sự an toàn của cộng đồng, dẫn đến sự lo lắng và mất lòng tin của người dân vào việc quản lý trật tự xã hội của Nhà nước. Do vậy, đối với các bị cáo cần phải cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Đây là vụ án có 02 bị cáo phạm tội nhưng mỗi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội độc lập. Các bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng ít, tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của 02 bị cáo trong vụ án này là tương đương nhau. Tuy nhiên, xét về nhân thân của mỗi bị cáo thì thấy: Bị cáo Hồ Viết Thanh B có nhân thân xấu, đã từng bị kết án và xử phạt tù nhưng vẫn không chịu rèn luyện tu dưỡng, nhiều lần sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, bị cáo B phải chịu mức hình phạt nặng hơn so với bị cáo Đ.

[5] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo B là người đang nuôi con nhỏ, có ông Ngoại là người có công cách mạng, được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất; bị cáo Đ có hoàn cảnh gia đình thuộc diện khó khăn, cha của bị cáo đã có nhiều thành tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, được Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tặng bằng khen. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà Hội đồng xét xử đã xem xét, áp dụng để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý các vật chứng đang tạm giữ trong vụ án như sau:

[7.1] Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật ma túy mẫu hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số: 45/GĐ-MT ngày 12/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 02 (hai) nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 (một) vỏ bao ni lông kích thước 04cm x 07 cm; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu ‘SAIGON SIVER’’ được đựng trong 01 (một) bì niêm phong số: 08/GĐ-MT ngày 28/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng. [7.2] Trả lại cho Hồ Viết Thanh B 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu xanh có số imei: 352724100791606 có gắn 02 sim số 0762658… và 0774476…, số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), vì đây là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[7.3] Trả lại cho Nguyễn Hồng Đ 01 (một) điện thoại đi động hiệu Sam Sung màu vàng có số imei: 35641275124492 có gắn sim số 0935570… và số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng), vì đây là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[7.4] Đối với xe mô tô hiệu Honda wave màu đỏ, biển số 43S7 - …, số khung: RPHWCHDXM6H090973, số máy: RPTDS153FMH00090973 mà bị cáo Hồ Viết Thanh B sử dụng là của bà Nguyễn Thị T1 mua nhưng chưa thực hiện thủ tục đăng ký theo quy định nên cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho bà T1 là phù hợp.

[8] Ngoài ra, bị cáo Hồ Viết Thanh B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Trưởng Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hồ Viết Thanh B là phù hợp.

[9] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Trong giai đoạn điều tra và truy tố, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng. Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[11] Trong vụ án này, bị cáo Hồ Viết Thanh B khai khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ để sử dụng là mua của bị cáo Nguyễn Hồng Đ; còn bị cáo Nguyễn Hồng Đ khai khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ để sử dụng là mua của bị cáo Hồ Viết Thanh B. Ngoài số ma túy bị thu giữ, Công an còn thu giữ của mỗi bị cáo 01 chiếc nỏ thủy tinh dùng để sử dụng ma túy. Như vậy, ngoài hành vi tàng trữ trái phép khối lượng ma túy để sử dụng, một trong hai bị cáo còn có hành vi bán ma túy cho người còn lại nhưng không thừa nhận.

[11.1] Bị cáo Hồ Viết Thanh B khai việc mua bán ma túy như sau: Vào khoảng 18h30 ngày 08/02/2020, tôi có gặp em vợ là chị Lê Thị Thanh H và mượn điện thoại của H (số điện thoại: 0766.662…) gọi trước cho Đ (số điện thoại: 0935.570…) để hỏi mua ma túy với số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Đ đồng ý và hẹn giao dịch ở quán nhậu B tại số .. đường P, quận Thanh Khê. Khi biết tôi đang ở khu vực gần quán nhậu nên Đ bảo tôi chở vợ con đến gặp Đ để lì xì đầu năm cho con tôi. Sau khi chở vợ con đến gặp Đ trước quán nhậu nói chuyện, chúng tôi về lại nhà. Đến khoảng 21 giờ 00’ cùng ngày, tôi đến địa chỉ trên để lấy ma túy thì đã thấy Đ đứng bên kia đường chờ sẵn. Tôi sang đường và gặp Đ, lúc này Đ đưa tôi 01 (một) gói ma túy và một nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy), tôi cầm gói ma túy nhưng làm rơi nỏ thủy tinh. Tôi cúi xuống nhặt thì Cơ quan Công an ập đến, tôi vứt gói ma túy xuống đất thì bị phát hiện và thu giữ. Tôi chưa kịp đưa tiền mua ma túy cho Đ.

[11.2] Chị Lê Thị Thanh H khai không gặp mặt bị cáo B và cũng không cho bị cáo mượn điện thoại để sử dụng vào tối ngày 08/02/2020. Tại biên bản kiểm tra cuộc gọi đến và đi trên điện thoại của bị cáo Đ không thể hiện có cuộc gọi đến từ số điện thoại 0766.662… của chị Hiền. Chi tiết dữ liệu thuê bao số điện thoại 0766.662… (tên thuê bao: Lê Thị Thanh H) do Trung tâm tính cước và thanh khoản Mobifone cung cấp theo Văn bản số: 1345/TT.TCTK-ĐSTK ngày 21/5/2020 (gửi đến Tòa án vào ngày 08/6/2020) thể hiện không có cuộc gọi từ số 0766.662… đến số 0935.570… (tên thuê bao: Nguyễn Hồng Đ) vào ngày 08/02/2020. Chi tiết dữ liệu thuê bao số điện thoại 0774.476… (tên thuê bao: Trần Thị Diễm T5) và thuê bao số điện thoại 0762.658…. (tên thuê bao: Huỳnh Văn L) do bị cáo B trực tiếp sử dụng thể hiện số thuê bao 0935.570… (tên thuê bao: Nguyễn Hồng Đ) gọi lần đầu đến số 0774.476… vào lúc 19h02', cuộc gọi cuối cùng vào lúc 21h16' cùng ngày 08/02/20. Như vậy, lời khai của bị cáo B về việc mua ma túy từ bị cáo Đ không phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản đối chất ngày 16/4/2020 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[11.3] Bị cáo Nguyễn Hồng Đ khai việc mua bán ma túy như sau: Tôi với B quen biết nhau vì làm cùng công trình, tôi có lưu số điện thoại của B là "Em B sơn vôi" (khi bị bắt tôi biết tên thật là Hồ Viết Thanh B), tôi biết B có sử dụng ma túy. Vào khoảng 19 giờ 00’ ngày 08/02/2020, tôi đang ngồi nhậu cùng nhóm bạn trong quán nhậu B tại địa chỉ số .. đường P, quận Thanh Khê thì có người (không nhớ rõ ai trong nhóm bạn) nhờ tôi mua ma túy về dùng nên tôi điện cho B hỏi mua 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) ma túy và B đồng ý. Qua trao đổi điện thoại, B cho biết đang cùng vợ con ở gần khu vực tôi nhậu nên tôi bảo B chở con đến để tôi lì xì đầu năm. Sau khi gặp trước quán nhậu thì B chở vợ con về. Sau đó, tôi nhiều lần điện thoại yêu cầu B đến giao ma túy. Sau khi nhậu xong, tôi ra khỏi quán và đi qua Công viên (đối diện quán nhậu) ngồi đợi B. Khi B đến quán nhậu thấy tôi đứng đối diện bên kia đường thì B qua đường và đưa cho tôi 01 (một) bao thuốc lá hiệu “Sài Gòn” bên trong có 01 (một) gói ma túy đá và 01 nỏ thủy tinh. Lúc này có lực lượng Công an ập đến, do hoảng sợ tôi đã vứt gói thuốc lá bên trong có gói ma túy và nỏ thủy tinh ra phía sau người thì bị phát hiện và thu giữ. Tôi chưa kịp đưa tiền cho B thì bị bắt.

[11.4] Lời khai của bị cáo Đ về khoảng thời gian, số điện thoại liên lạc đến bị cáo B phù hợp với Biên bản kiểm tra điện thoại của bị cáo B và bị cáo Đ. Chi tiết dữ liệu thuê bao số điện thoại 0935.570… (tên thuê bao: Nguyễn Hồng Đ) do Trung tâm tính cước và thanh khoản Mobifone cung cấp thể hiện số điện thoại 0935.570… gọi đến số điện thoại 0774.476… vào ngày 08/02/2020 tổng cộng 17 lần, cuộc gọi đầu tiên vào lúc 19h02', cuộc gọi cuối cùng vào lúc 21h16'. Như vậy, lời khai của bị cáo Đ về việc mua ma túy từ bị cáo B phù hợp với Biên bản đối chất ngày 16/4/2020 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[11.5] Hội đồng xét xử đã tiến hành trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để điều tra bổ sung, truy tố đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong vụ án này tại phiên tòa lần đầu vào ngày 18/6/2020. Tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê cho rằng không có đủ cơ sở để xác định được ai trong hai bị cáo đã bán ma túy nên không tiến hành thủ tục điều tra bổ sung, truy tố đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Vì thế, Hội đồng xét xử không thể xét xử về hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong vụ án này theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử kiến nghị đến Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng xem xét lại quyết định không tiến hành thủ tục điều tra bổ sung, truy tố đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong vụ án này của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để tránh bỏ lọt tội phạm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; các Điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Hồ Viết Thanh B, Nguyễn Hồng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Viết Thanh B 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 2 năm 2020.

- Áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 2 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật ma túy mẫu hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số: 45/GĐ-MT ngày 12/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng; 02 (hai) nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy); 01 (một) vỏ bao ni lông kích thước 04cm x 07 cm; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu ‘SAIGON SIVER’’ được đựng trong 01 (một) bì niêm phong số: 08/GĐ-MT ngày 28/02/2020 có đóng dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Trả lại cho Hồ Viết Thanh Bình 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu xanh có số imei: 352724100791606 có gắn 02 sim số 0762658… và 0774476…, số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho Nguyễn Hồng Đ 01 (một) điện thoại đi động hiệu Sam Sung màu vàng có số imei: 35641275124492 có gắn sim số 0935570… và số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng).

(Tất cả vật chứng nêu trên hiện đang được Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/5/2020 và Biên lai thu tiền số: 007337 ngày 22/5/2020)

3. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 14/9/2020).

5. Về kiến nghị: Kiến nghị Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng xem xét lại quyết định không thực hiện thủ tục điều tra bổ sung, truy tố hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong vụ án này của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2020/HSST ngày 14/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về