Bản án 106/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 106/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 319/2018/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 90/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự: 

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị D; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi ở hiện nay: Thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức H; địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 4 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn chị Đinh Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đinh Thị D kết hôn với anh Nguyễn Đức H trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 25 tháng 3 năm 2008. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận,hạnh phúc đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế nên thường xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn, chị D đã bỏ về ăn ở tại thôn Đ, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng và sống ly thân với anh H, không ai quan tâm đến ai. Mâu thuẫn vợ chồng chị D, anh H đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Chị D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Đức H.

Về con chung: Chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức H có 01 con chung tên Nguyễn Đức S, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2008. Khi ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị D trình bày chị và anh H tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Đinh Thị D khai chị và anh Nguyễn Đức H không cótài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Đức H có nơi cư trú tại thôn L, xã L, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Đức H không hợp tác, cố tình trốn tránh. Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Nguyễn Đức H vẫn vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày về yêu cầu xin ly hôn của chị Đinh Thị D.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Đinh Thị Dvà anh Nguyễn Đức H được ly hôn. Về con chung: Chị D, anh H có một con chung là Nguyễn Đức S, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2008. Khi ly hôn chị D xin được trực tiếp nuôi con chung. Cháu Nguyễn Đức S có nguyện vọng ở với mẹ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình xử giao cho chị D trực tiếp nuôi con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung chị D không yêu cầu nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao giấy chứng nhận kết hôn, bản sao sổ hộ khẩu, bản sao giấy chứng minh nhân dân; bản sao giấy khai sinh của con; Bản tự khai; Biên bản lấy lời khai; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Đức H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Đức H.

 [2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức H là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, cuộc sống chung không thống nhất, bất đồng quan điểm, làm ăn kinh tế gặp nhiều khó khăn dẫn đến thường xuyên cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng chị D, anh H đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn chị D đã bỏ về nhà mẹ đẻ tại thôn Đ, xã L, huyện Thủy Nguyên từ tháng 10 năm 2017 và sống ly thân với anh H từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Mặt khác, anh Nguyễn Đức H hiện có mặt tại địa phương và biết rõ việc chị D xin ly hôn. Tòa án đã triệu tập anh H nhiều lần nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện anh H không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Đinh Thị D được ly hôn anh Nguyễn Đức H.

 [3] Về con chung: Chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức H có 01 con chung là Nguyễn Đức S, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2008. Khi ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Đức S. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét từ khi sống ly thân đến nay, chị D là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Nguyễn Đức S có nguyện vọng ở với mẹ. Vì vậy, có thể giao cho chị Đinh Thị D được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Đức S cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị D trình bày để chị và anh H tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

 [4] Về tài sản chung: Chị Đinh Thị D khai chị và anh Nguyễn Đức H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặt khác, chưa có lời khai của anh Hễ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

 [5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Đinh Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức H.

2. Về con chung: Giao cho chị Đinh Thị D trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Đức S, sinh ngày 31 tháng 10 năm 2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đinh Thị D và anh Nguyễn Đức Htự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về án phí: Chị Đinh Thị D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008984 ngày 11 tháng 5 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Đinh Thị D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Đinh Thị D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Đức H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:106/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về