TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 105/2021/HS-PT NGÀY 15/10/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 15 tháng 10 năm 2021 tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 79/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Mai Thế Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh Bình Dương.
Bị cáo có kháng cáo Mai Thế Đ, sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số B, khu phố N phường L thành phố T tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ văn hóa: lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Thế D và bà Nguyễn Ngọc M; có vợ là bà Nguyễn Thị Lệ T và 04 người con; tiền án tiền sự: không; nhân thân:
Ngày 16/6/2017 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) T1 tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 07 tháng tù về các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 114/2017/HS-ST; ngày 13/3/2009 bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thị xã) B tỉnh Bình Dương xử phạt 38 tháng tù về các tội “Cướp giật tài sản”, “Trốn khỏi nơi giam” theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2008/HS-ST.
Bị cáo tại ngoại có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có 01 bị cáo 01 bị hại không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 24/7/2020 Nguyễn Văn H đi bộ ngang qua Spa Kim Quỳnh (tại đường N khu phố 2 phường P thành phố T tỉnh Bình Dương) thì nhìn thấy trên ghế của tiệm có máy tính bảng hiệu Ipad 5 màu trắng bạc đang cắm sạc pin. H quan sát thấy trong Spa không có người nên đã đi vào bên trong lấy máy tính bảng và rút dây sạc rồi cất giấu trong áo đi ra ngoài. H đón xe buýt đi đến khu vực phường L thành phố T tỉnh Bình Dương gặp Mai Thế Đ, nói cho Đ biết vừa trộm được chiếc máy tính bảng rồi nhờ Đ mang đi bán để lấy tiền tiêu xài. Đ đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 69N1-095.84 mang chiếc máy tính bảng đến cửa hàng điện thoại di động Lâm Hiền (tại số 505 Nguyễn Trãi khu phố N phường L thành phố T tỉnh Bình Dương) để bán thì được cửa hàng báo là chỉ mở khóa máy nhưng không mua máy. Đ mang máy về gặp H để tiếp tục bàn bạc việc bán chiếc máy tính bảng. Lúc này bà Huỳnh Thị Bạch Kphát hiện mất máy tính bảng nên định vị và phát hiện vị trí máy tính bảng đang ở phường Lái Thiêu nên bà K đến Công an phường Lái Thiêu trình báo. Khi Công an phường Lái Thiêu đến địa điểm định vị thì phát hiện H và Đ cùng chiếc máy tính bảng nên mời về trụ sở để làm việc. Tại trụ sở Công an phường Lái Thiêu H và Đ thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Bản kết luận định giá tài sản số: 165/KLTS-TTHS ngày 14/8/2020, Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận:
01 (một) chiếc Ipad 5, màu trắng bạc, trị giá 6.500.000 đồng.
Ngày 29/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho bà Huỳnh Thị Bạch K một chiếc Ipad 5, màu trắng bạc theo Quyết định xử lý vật chứng số 97 ngày 29/7/2020, bà K không có yêu cầu gì khác đối với H.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2021 Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo Mai Thế Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Thế Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; về án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo người tham gia tố tụng khác.
Ngày 31 tháng 3 năm 2021 bị cáo Mai Thế Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm là đúng theo quy định tại các Điều 332 333 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm xác định do vậy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật. Bị cáo có nhân thân xấu từng bị xét xử về các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội “Làm giả con dấu tài liệu của cơ quan tổ chức” nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ thái độ xem thường pháp luật. Với tình chất mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 01 năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy không có cơ sở xem xét kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại phần tranh luận và trong lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội được chăm sóc cho gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là đúng.
[2] Về nội dung: Ngày 24/7/2020 tại tiệm Spa Kim Quỳnh (thuộc đường N khu phố 2 phường P thành phố T tỉnh Bình Dương) bị cáo Nguyễn Văn H đã lén lút chiếm đoạt 01 máy tính bảng hiệu Ipad 5 màu trắng bạc trị giá 6.500.000 đồng của bị hại Huỳnh Thị Bạch K. Sau đó H đem máy tính bảng đến phường L thành phố T gặp bị cáo Đ, nói cho Đ vừa chiếm đoạt được máy và nhờ bị cáo Đ đem bán. Bị cáo Đ đem máy đi bán nhưng không được. Khi cả hai đang bàn bạc tiêu thụ tiếp thì bị bắt giữ. Hành vi của bị cáo Mai Thế Đ đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xét xử Mai Thế Đ với tội danh điều khoản nêu trên là đúng người đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù tài sản bị cáo tiêu thụ có giá trị không lớn (6.500.000 đồng), tài sản cũng đã thu hồi giao trả cho bị hại, tuy nhiên, bị cáo Mai Thế Đ có nhân thân xấu, từng bị xét xử về các tội “Cướp giật tài sản”, “Trốn khỏi nơi giam”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”, sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ xem thường pháp luật. Do vậy, với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 01 năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo cũng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào khác nên không có căn cứ chấp nhận.
[4] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Mai Thế Đ phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Thế Đ. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 56/2021/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Tuyên bố bị cáo Mai Thế Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Mai Thế Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Mai Thế Đ phải nộp 200.000 đồng.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 105/2021/HS-PT ngày 15/10/2021 về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 105/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về