Bản án 105/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 105/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 306/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2019 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 99/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị D; địa chỉ: Thôn 1, xã C, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ; địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 02/12/2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị D (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 09 tháng 9 năm 2016. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc làm ăn kinh tế và trong sinh hoạt dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn chị D và anh Đ hiện đã sống ly thân nhau. Chị D nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Chị Đỗ Thị D khai: Chị và anh Nguyễn Văn Đ không có con chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị D khai: Chị và anh Nguyễn Văn Đ không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh Đ vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị Duyên xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Đỗ Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ.Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị D và anh Đ được ly hôn. Về con chung và tài sản chung: Chị D khai chị và anh Đ không có con chung, không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đỗ Thị D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Đ vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ được xác lập năm 2016 là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt dẫn đến cuộc sống chung vợ chồng ngày càng thờ ơ lạnh nhạt và không còn tình cảm thương yêu nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn, chị D và anh Đ hiện đã sống ly thân nhau. Chị D xin ly hôn anh Đ, Tòa án đã triệu tập anh Đ nhiều lần đến phiên tòa để trình bày ý kiến về việc chị D xin ly hôn nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị D và anh Đ được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị D khai: Chị và anh Nguyễn Văn Đ không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị D khai chị và anh Nguyễn Văn Đ không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đỗ Thị D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp  quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Văn Đ.

2. Về án phí: Chị Đỗ Thị D phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị D đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0000577 ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.

Chị Đỗ Thị D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Chị Đỗ Thị D, anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2019/HNGĐ-ST ngày 28/06/2019 về ly hôn

Số hiệu:105/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về