Bản án 105/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 105/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 112/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Vàng A P, sinh ngày: 25/10/1998, tại tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vàng Sếnh H (sinh năm: 1956) và bà: Hạng Thị X (đã chết); bị cáo chưa có vợ, có 01 con, sinh năm: 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từngày 27/7/2018, tạm giam từ ngày 30/7/2018 cho đến nay, được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Vàng A P: Bà Lê Thị X, Luật sư, Cộng tác viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 45 phút ngày 27/7/2018, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Điện Biên phối hợp với Phòng Phòng chống ma túy và tội phạm - Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Điện Biên làm nhiệm vụ tại khu vực chợ trung tâm xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đã phát hiện và bắt quả tang Vàng A P đang mua bán trái phép 04 bánh Heroine có tổng khối lượng là 1.330,5 gam. Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy đã tiến hành đưa bị cáo về Cơ quan điều tra để điều tra vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại bản Kết luận giám định số: 698/GĐ-PC54, ngày 02/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

 “- 04 (bốn) mẫu chất bột màu trắng kí hiệu M1, M2, M3, M4 trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng A P gửi giám định là ma túy: Loại Heroine.

- Khối lượng 04 (bốn) bánh chất bột màu trắng thu giữ của Vàng A P là 1.330,5 gam”.

Tại bản Cáo trạng số: 57/QĐ-VKS-P1 ngày 08/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Vàng A P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015.

Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Vàng A P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm: Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251/BLHS năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Vàng A P tù Chung thân. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251/BLHS năm 2015 đối với bị cáo vì bị cáo không có khả năng thi hành. Về vật chứng, đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47/BLHS năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, tịch thu tiêu hủy: 1.315,2 gam Heroine (đã trừ mẫu gửi giám định), 01 túi vải màu đen, loại túi xách có quai đeo, nhãn hiệu “Thủ Đô Vàng”, 01 giấy chứng nhận đăng ký mô tô, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô, xe máy của xe HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551.ab đều mang tên chủ xe Vàng A P; đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551.ab và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIONEE màu xám, loại máy có bàn phím, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước; đối với 01 Chứng minh nhân dân mang tên Vàng A P, xét thấy không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136/BLTTHS, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Vàng A P trình bày: Sau khi bị bắt, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa,bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc Mông nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, để xem xét mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

 [2] Tại phiên tòa, bị cáo Vàng A P đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã khai rằng:

Vàng A T là chú họ của bị cáo nhà ở bản P, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên rủ bị cáo cùng đi mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo đồng ý, sau đó đi cùng Vàng A T xuống chợ trung tâm xã M gặp một người tên là Lò Văn T nhà ở huyện T, tỉnh Điện Biên. Tại đây, Vàng A T và Lò Văn T đã bàn bạc việc mua bán trái phép chất ma túy. Đến khoảng 21 giờ ngày 26/7/2018, Vàng A T gọi điện cho bị cáo rủ bị cáo cùng đi bán 04 bánh Heroine giá 120.000.000VNĐ/bánh Heroine, hứa sẽ trả công cho bị cáo 5.000.000 VNĐ/bánh Heroine, bị cáo  đồng ý. T bảo bị cáo sáng ngày 27/7/2018 xuống trung tâm xã M, gặp Lò Văn T là người mà bị cáo và T đã quen biết từ trước để bàn bạc việc mua bán Heroine. Đến khoảng 8h ngày 27/7/2018, bị cáo gặp T tại khu vực chợ trung tâm xã M, thống nhất với T giá 120.000.000 VNĐ/bánh Heroine, tổng cộng 04 bánh là 480.000.000 VNĐ. Sau đó, bị cáo gọi điện thông báo cho Vàng A T biết thì T bảo bị cáo quay lại khu vực cầu N gặp T. Khi gặp nhau, T đưa cho bị cáo một túi vải màu đen, bên trong có 04 bánh Heroine để bán cho T. Bị cáo đi xe máy quay lại chợ trung tâm xã M, đang trao đổi mua bán 04 bánh Heroine với T thì bị cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 04 bánh Heroine có khối lượng 1.330,5 gam, còn T bỏ chạy, cơ quan pháp luật không bắt được. Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi nêu trên của Vàng A P là nguy hiểm cho xã hội đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251/BLHS năm 2015.

 [3] Đánh giá tính chất vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh Điện Biên trong những năm gần đây, mặc dù cơ quan pháp luật đã truy quét và xử lý rất nghiêm minh đối với các loại tội phạm này, nhưng loại tội phạm này vẫn chưa có chiều hướng giảm. Tại phiên tòa, bị cáo Vàng A P thừa nhận biết tác hại của ma túy tới đời sống và sức khỏe của con người, nhưng chỉ vì lợi nhuận mà bị cáo đã có hành vi giao dịch mua bán trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo Vàng A P đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Điện Biên, bị cáo Vàng A P đã có hành vi mua 04 bánh Heroine có tổng trọng lượng là 1.330,5 gam nhằm mục đích để bán kiếm lời. Tại bản Kết luận giám định số: 698/GĐ-PC54, ngày 02/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “04 (bốn) mẫu chất bột màu trắng kí hiệu M1, M2, M3, M4 trích ra từ vật chứng thu giữ của Vàng A P gửi giám định là ma túy: Loại Heroine”. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Vàng A P đã phạm vào tình tiết định khung quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự, do đó, việc Viện kiểm sát nhân tỉnh Điện Biên Biên truy tố và kết luận bị cáo Vàng A P về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là chính xác có căn cứ đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng một mức hình phạt tù phù hợp với hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là cần thiết.

 [4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo Vàng A P không có tiền án, tiền sự, do đó, bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy rằng: Sau khi bị bắt, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa,bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc Mông sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bởi vậy, HĐXX thấy rằng cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội,thông qua đó tạo điều kiện cho bị cáo rèn luyện, cải tạo tốt sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án tại bút lục số 53 ngày 08/8/2018 do Cơ quan điều tra lập và lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập, sinh sống bằng nghề làm nương, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Vàng A P nhất trí về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biênvà phân tích tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đề nghị HĐXX áp dụng áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS điểm b khoản 4 Điều 251/BLHS, xem xét để bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt. HĐXX thấy rằng lời đề nghị của người bào chữa là chưa có cứ nên không chấp nhận.

 [5]Về vật chứng vụ án: Căn cứ quy định tại Điều 47/BLHS và Điều 106/BLTTHS, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số Heroine đã thu giữ của bị cáo.

- 01 túi vải màu đen, loại túi xách có quai đeo, nhãn hiệu “Thủ Đô Vàng”, đã qua sử dụng; 01 chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy của xe HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551ab mang tên chủ xe Vàng A P; 01 chứng nhận bảo hiểm mô tô, xe máy của xe HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551ab mang tên chủ xe Vàng A P, hết giá trị sử dụng.

- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551ab, số khung: RLHJA3814GY0047xy, số máy: JA38E-00132rs, là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu GIONEE màu xám, loại máy có bàn phím, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Vàng A P.

Trong vụ án còn thể hiện đối tượng Vàng A T nhà ở bản P, xã M, huyện Đ, tỉnh Điện Biên và Lò Văn T nhà ở huyện T, tỉnh Điện Biên, theo lời khai của Vàng A P là những người cùng tham gia mua bán trái phép chất ma túy với P, Cơ quan điều tra đã điều tra xác minh nhưng T1 và T2 không có mặt tại nơi cư trú nên chưa làm rõ được hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết trong cùng vụ án này.

 [6] Về án phí: Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc hộ nghèo, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên căn cứ Điều 135, Điều 136/BLTTHS,điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố:

Bị cáo Vàng A P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

Xử phạt bị cáo Vàng A P tù Chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 7 năm 2018.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy:

- 1.315,2 gam Heroine (đã trừ mẫu gửi giám định).

- 01 (một) túi vải màu đen, loại túi xách có quai đeo, nhãn hiệu “Thủ Đô Vàng”, đã qua sử dụng. Thu giữ của Vàng A P.

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy của xe HONDA WAVE RSX, biển kiểm soát 27B1 - 551ab mang tên chủ xe Vàng A P. Thu giữ của Vàng A P.

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô, xe máy của xe HONDA WAVE RSX, biển kiểm soát 27B1 - 551.ab mang tên chủ xe Vàng A P. Thu giữ của Vàng A P.

* Tịch thu sung ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE RSX màu xanh, biển kiểm soát 27B1 - 551ab, số khung: RLHJA3814GY0047xy, số máy: JA38E-00132rs, xe cũ đã qua sử dụng, kiểm tra không phát hiện thu giữ gì trong xe. Thu giữ của Vàng A P.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu GIONEE màu xám, loại máy có bàn phím, máy cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong máy. Thu giữ của Vàng A P.

* Trả lại bị cáo Vàng A P.

- 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Vàng A P.

 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều traCông an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 08 tháng 11 năm 2018).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136/BLTTHS, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vàng A P.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/11/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 105/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:105/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về