Bản án 104/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 107/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021đối với bị cáo:

Lò Văn V (tên gọi khác: Sinh L), sinh năm 1974, tại tỉnh Phông -Sa -Lỳ nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, cụm H, huyện M, tỉnh Phông - Sa - Lỳ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không học; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Lào; con ông Thào M, sinh năm 1956 và bà Nang S, sinh năm: 1956; có vợ: Nang C, sinh năm 1976; bị cáo có 06 người con, con lớn nhất sinh năm 1992,con nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/3/2021, bị tạm giam từ ngày 23/3/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn V: Bà Lò Thị X - Luật sư, Công ty luật Him Lam và cộng sự thuộc đoàn luật sư tỉnh Điện Biên - Người phiên dịch cho bị cáo: Bà Trần Thị L, sinh năm 1963; Địa chỉ: Tổ 01, phường N, thành phố D, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối năm 2020 Lò Văn V trú tại bản N, cụm H, huyện M, tỉnh Phông - Sa - Lỳ, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào có gặp và quen biết một người đàn ông tên H người thái, nhà ở huyện A, tỉnh Điện Biên cần mua Methamphetamine và thuốc phiện, hai bên cho nhau số điện thoại để liên lạc. Ngày 16/3/2021 Lò Văn V gặp Lèng Văn T người đàn ông quốc tịch Lào hỏi mua nợ được 05 bánh Methamphetamine với giá 15 triệu đồng tiền VNĐ/01 bánh. Cùng ngày Lò Văn V gặp Khoàng Văn K người quốc tịch Lào hỏi mua nợ thuốc phiện, K đồng ý và đưa cho V một hộp bìa catton trong có thuốc phiện, V không mở ra xem và cũng không rõ là bao nhiêu, K nói với V giá 15 triệu đồng/01kg, nếu bán được V sẽ được hưởng lãi 2 triệu đồng/01kg. Sau khi mua nợ được Methamphetamine và thuốc phiện Lò Văn V gọi điện thoại cho H thông báo đã có Methamphetamine và thuốc phiện, mua với giá 15 triệu đồng/01 bánh Methamphetamine và 15 triệu đồng/01kg thuốc phiện. H đồng ý mua với giá đó và hứa trả thêm cho V 10 triệu đồng tiền VNĐ. Sáng ngày 17/3/2021 V cho Methamphetamine và thuốc phiện vào ba lô vải màu đen, mang theo 01 con dao nhọn và 01 khẩu súng kíp tự chế đi bộ đến điểm hẹn khu vực mốc 71 thuộc địa phận bản L, xã S, huyện M thì gặp H. Khi V và H đang trao đổi mua bán ma túy thì bị tổ công tác phát hiện bắt giữ cùng vật chứng 05 bánh Methamphetamine có khối lượng 2,611 gam và 648,91 gam nhựa thuốc phiện, lợi dụng sơ hở H đã bỏ chạy thoát không bắt giữ được.

Tại Bản kết luận giám định số 408/GĐ-PC09 ngày 14/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- 150 (Mười trăm năm mươi) mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn V gửi giám định là chất ma túy: loại Methamphetamine.

- 04 (Bốn) mẫu chất dẻo màu nâu đen trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn V gửi giám định là chất ma túy: Loại thuốc phiện.

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn V gồm: 2.611 gam viên nén màu hồng; 648,91 gam chất dẻo màu nâu đen.

- Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy STT: 47, Mục ID, Danh mục I, Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29/5/2020.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Bản Cáo trạng số 66/CT-VKS-P1 ngày 07/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên để xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn V tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo Lò Văn V: Bị cáo do hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, trình độ văn hóa không có, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng, bị cáo Lò Văn V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo Lò Văn V trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 17/3/2021 tại khu vực mốc 71 thuộc địa phận bản L, xã S, huyện M, tỉnh Điện Biên. Tổ công tác Đồn biên phòng S phối hợp với Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Điện Biên và Phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Điện Biên phát hiện, bắt quả tang Lò Văn V đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ 2.611 gam Methamphetamine và 648,91 gam nhựa thuốc phiện.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận, bị cáo Lò Văn V đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự, kết luận của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Đánh giá tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ, vận chuyển, mua bán các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi mua bán trái phép 2.611 gam Methamphetamine và 648,91 gam Heroine thu giữ của bị cáo Lò Văn V đã vi phạm tình tiết định khung được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Lò Văn V sinh sống tại Bản N, cụm H, huyện M, tỉnh Phông - Sa - Lỳ. Do hám lợi, bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” và bị bắt giữ từ ngày 17/3/2021 cho đến nay.

Bị cáo Lò Văn V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo.

Tuy nhiên, Để nghiêm trị những hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhất là tội phạm về ma túy. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cao nhất đó là loại trừ bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, để lấy đây làm bài học cảnh báo chung cho toàn xã hội, phục vụ cho công tác đấu tranh, ngăn ngừa các loại tội phạm trong tình hình hiện nay. Do đó, đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về phần hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ cần chấp nhận.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, cần chấp nhận. đối với đề nghị về mức hình phạt của người bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ, bởi vì khối lượng ma túy bị cáo tham gia mua bán là đặc biệt lớn, hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, nên đề nghị này không được chấp nhận.

[5]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6]. Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, số vật chứng đã thu giữ của bị cáo cần xử lý như sau:

Đối với: 150 túi Methamphetamine có khối lượng còn lại sau khi giám định 2.543,5 gam Methamphetamine và 04 cục chất nhựa dẻo màu nâu đen là thuốc phiện có khối lượng còn lại sau khi giám định 612,63 gam; 01 (một) con dao nhọn, dài khoảng 30 cm, vỏ bao đựng dao làm bằng gỗ; 01 (một) chiếc ba lô bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo Lò Văn V. Cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại loại bàn phím, hiệu Itel, màu đen, đã qua sử dụng bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với khẩu súng kíp tự chế đã thu giữ của bị cáo, cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 04/QĐ-CSMT ngày 01/4/2021 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên về việc tiến hành bàn giao 01 (một) khẩu súng kíp tự chế cho Phòng Hậu cần - Công an tỉnh Điện Biên quản lý theo quy định của pháp luật. HĐXX chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 04/QĐ-CSMT ngày 01/4/2021 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Bị cáo Lò Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8]. Về các vấn đề khác: Theo lời khai của bị cáo người đàn ông tên H nhà ở huyện A, tỉnh Điện Biên là người mua ma túy của bị cáo, do không xác định được địa chỉ cụ thể, nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ xác minh làm rõ. Đối với hai người bán ma túy cho bị cáo là Lèng Văn T và Khoàng Văn K là người quốc tịch Lào nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ xác minh làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn V (tên gọi khác: Sinh L) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 40 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn V tử hình.

Áp dụng khoản 4 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Lò Văn V để bảo đảm thi hành án.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 2.543,5 gam Methamphetamine thu giữ của Lò Văn V là vật chứng của vụ án còn lại sau khi trích mẫu gửi giám định.

- 648,91 gam thuốc phiện thu giữ của Lò Văn V là vật chứng của vụ án còn lại sau khi trích mẫu gửi giám định.

- 01 (một) con dao nhọn, dài khoảng 30cm, vỏ bao đựng dao làm bằng gỗ.

- 01 (một) ba lô bằng vải, màu đen, đã qua sử dụng.

* Tịch thu sung ngân sách nhà nước:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động loại bàn phím, hiệu Itel, màu đen, đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 08/9/2021).

4.Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333, Điều 367 Bộ luật tố tụng Hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2021) Trong thời hạn 07 ngày kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo bị tuyên án tử hình có quyền làm đơn xin ân giảm đến Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về