Bản án 104/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 104/2021/HS-PT NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số số 34/TLPT-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Phan Văn H về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị cáo kháng cáo:

Phan Văn H (tên gọi khác L), sinh ngày 19 tháng 2 năm 1983 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn K (đã chết) và bà Nguyễn Thị M; tiền sự: Không; Tiền án: 05.

Ngày 20/4/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 23/1999/HSPT.

Ngày 22/12/2000 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 125/2000/HSST.

Ngày 09/01/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa thiên Huế xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 01/2004/HSPT.

Ngày 04/6/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 07 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 44/2009/HSPT, tổng hợp hình phạt 04 năm 06 tháng tù của Bản án số 02/2009/HSST ngày 14/01/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 11 năm 06 tháng tù.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/02/2020 cho đến nay.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn S, Lâm Thanh C và Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong tháng 01/2020, Phan Văn H rủ Trần Văn S và Lâm Thanh C thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố H và thị xã H, cụ thể:

Vụ 1: Khoảng 23 giờ ngày 26/01/2020, Phan Văn H dùng xe mô tô biển kiểm soát 75H9-1962 chở Lâm Thanh C đi từ Huế về cầu vượt T để trộm cắp tài sản. Khoảng 01 giờ ngày 27/01/2020, H và C phát hiện nhà của anh Lý Trọng X tại thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế mở cửa chính Tầng 2. H chạy xe mô tô đến phía trước nhà anh X rồi dừng xe đề C ngồi ở ngoài cảnh giới. H leo lên Tầng 2 vào nhà anh X rồi đi theo đường cầu thang xuống Tầng 1 lấy trộm 01 điện thoại OPPO F5 thì bị vợ chồng anh X phát hiện, tri hô. H bỏ chạy và được C chở bằng xe mô tô tẩu thoát. Quá trình bỏ chạy, H làm rơi 01 cái ví da bên trong có 01 chứng minh nhân dân của H và 01 chứng minh nhân dân của chị Phan Nguyễn Phương T (sinh ngày 06/3/2002; trú tại thành phố H, là bạn gái H) thì anh X nhặt được. A X nhắn tin vào điện thoại H lấy trộm của anh tin nhắn “Mi chết rồi con ạ”. Sợ bị anh X tố giác, khoảng 05 giờ ngày 27/01/2020, H điện thoại cho T đến gặp H, H đưa cho T 1.000.000 đồng và nhờ T cùng C đến nhà anh X trả lại điện thoại OPPO F5 và đưa 1.000.000 đồng cho anh X để chuộc lại ví da và chứng minh nhân dân. A X nhận lại điện thoại, không nhận tiền, giữ ví da, chứng minh nhân dân lại và làm đơn tố giác H đến Công an thị xã H.

Vụ 2: Sau khi thực hiện vụ trộm tại nhà anh Lý Trọng X, C tiếp tục chở H về đường P, tìm nhà sơ hở để trộm cắp tài sản. Khoảng 1 giờ 40 phút ngày 27/01/2020, phát hiện nhà chị Lê Thị Trà M (tại số 99 đường P, phường V, thành phố H) không đóng cửa chính Tầng 3, C đứng ngoài cảnh giới, H leo tường rào và cột trụ lên Tầng 3 rồi đi theo đường cầu thang xuống phòng ngủ Tầng 1 lấy trộm 01 điện thoại Iphone 6S, màu hồng; 01 máy tính bảng Ipad pro và 01 túi xách màu trắng đen bên trong có 3.000.000 đồng. H quay lại Tầng 3 lấy 3.000.000 đồng, bỏ lại túi xách rồi đi ngược lối vào thoát ra ngoài. Tài sản trộm được H chia cho C 500.000 đồng, H giữ 2.500.000 đồng cùng 01 điện thoại I phone 6S, màu hồng; 01 máy tính bảng Ipad pro.

Vụ 3: Khoảng 0 giờ ngày 30/01/2020, sau khi nhậu cùng bạn bè tại ngã tư đường T và đường L, phường T, thành phố H, H rủ S đi bộ tìm nhà sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đi bộ đến trước nhà ông Lê Đình S tại thành phố H, phát hiện nhà không đóng kín cửa, H nói S đứng ngoài cảnh giới, còn H leo bờ rào, đi theo cửa chính vào bên trong nhà ông S lấy trộm 01 điện thoại OPPO, 01 điện thoại Sam sung J4 và lục tìm ví trong túi quần ông S lấy số tiền 108.000 đồng. Sau đó, H đi ra ngoài, đưa cho S cất giữ 02 điện thoại vừa lấy được.

Vụ 4: Sau khi thực hiện vụ trộm tại nhà ông S xong, H và S tiếp tục đi bộ đến trước nhà chị Nguyễn Hữu T A tại thành phố H, phát hiện cửa chính Tầng 2 nhà chị T A không đóng, H nói S đứng ngoài cảnh giới còn H leo tường rào lên Tầng 2 vào nhà chị T A rồi đi xuống phòng ngủ Tầng 1 theo đường cầu thang lấy trộm 01 điện thoại Iphone XS Max, 01 điện thoại Iphone 6 Plus, 01 điện thoại Iphone 7 plus và 01 túi xách. Sau đó, H đi lên lại Tầng 2, lục túi xách lấy trong đó số tiền 5.000.000 đồng; 10 tờ tiền loại 02 USD và 01 điện thoại Iphone 5 rồi vứt túi xách tại cầu thang. H tiếp tục lục tìm tại phòng ngủ Tầng 2 lấy trộm 01 điện thoại Iphone 7 plus. Sau khi đi ra ngoài, H đưa 04 điện thoại vừa trộm được cho S giữ. Sau đó, H và S đi bộ về phường Trường An, thành phố H, tại đây H chia cho S 03 điện thoại gồm 01 điện thoại OPPO (trộm tại nhà ông sung), 01 điện thoại Iphone 6 Plus, 01 điện thoại iphone 5 và 1.500.000 đồng. Sợ bị phát hiện, H rủ T ra Hà Tĩnh, quá trình di chuyển H làm thất lạc máy tính bảng Ipad pro, tại Hà Tĩnh H bán 01 điện thoại Sam sung J4, 01 điện thoại Iphone 7 plus cho anh Nguyễn Chính Lợi (ở thị trấn Phổ Châu, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 01/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt:

Bị cáo Phan Văn H 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù; Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/02/2020.

Ngoài ra Bản án còn tuyên quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo khác, trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 15/9/2020, Bị cáo Phan Văn H làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của bị cáo Phan Văn H: Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 3 năm 6 tháng tù là quá nặng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Về hành vi phạm tội và tội danh của bị cáo đã rõ; bị cáo có 04 tiền án đều về tội “Trộm cắp tài sản” và liên quan đến tài sản; vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù là phù hợp, không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Phan Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa; do đó, có đủ căn cứ để kết luận: Từ ngày 26/01/2020 đến ngày 27/01/2020, tại nhà của anh Lý Trọng X thị xã H và nhà của chị Lê Thị Trà M thành phố H, Phan Văn H cùng với Lâm Thanh C đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt của anh Lý Trọng X 01 điện thoại OPPO F5, của chị Lê Thị Trà M 01 điện thoại I phone 6S, màu hồng; 01 máy tính bảng Ipad pro và số tiền 3.000.000 đồng. Từ ngày 30/01/2020 đến ngày 31/01/2020, tại nhà của ông Lê Đình S ở số 03 T và nhà của chị Nguyễn Hữu T A ở thành phố H, Phan Văn H cùng với Trần Văn S đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt của ông Lê Đình X 01 điện thoại OPPO, 01 điện thoại Sam sung J4 và số tiền 108.000 đồng, của chị Nguyễn Hữu T A 01 điện thoại Iphone XS Max, 01 điện thoại Iphone 6 Plus, 01 điện thoại Iphone 7 plus; 01 điện thoại Iphone5; số tiền 5.000.000 đồng và 10 tờ tiền loại 02 USD. Như vậy, H tham gia 04 vụ trộm cắp tài sản, S và C tham gia 02 vụ trộm cắp tài sản, tổng số giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt được: đối với H 39.266.000 đồng, đối với S 31.971.000 đồng và C là 7.295.000 đồng.

[2] Xét thấy, Toà án cấp sơ thẩm xác định đối với bị cáo H, tại Bản án số 44/2009/HSPT, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xác định hành vi phạm tội của bị cáo H là tái phạm nguy hiểm, đến ngày 30/6/2019 H chấp hành xong hình phạt về cư trú tại địa phương chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, hành vi trộm cắp tài sản của Phan Văn H đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật, cần xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Phan Văn H xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm khi quyết định hình phạt đã xem xét về nhân thân và vận dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, như: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 04 lần bị kết án; trong đó 03 lần đều về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 lần tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Trong vụ án này, H là người khởi xướng và thực hành tích cực nhất nên có vai trò chính. Bị cáo H phạm vào tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; do đó, đã xử phạt bị cáo H 3 năm 6 tháng tù là phù hợp, không nặng.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới ở cấp phúc thẩm. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo; ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

[6] Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phan Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phan Văn H 3 (Ba) năm 6 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 03/02/2020.

3. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Việc thi hành án được thực hiện theo Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2020/HS-ST ngày 01/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phan Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2021/HS-PT ngày 26/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:104/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về