Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 104/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 81/2021/QĐST- HNGĐ ngày 07/6/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Lê Thị Thanh T, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Lê Văn T trình bày:

1. Về hôn nhân:

Anh T và chị Lê Thị Thanh T kết hôn với nhau vào năm 2003 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 02 vào ngày 13/01/2003 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng gia đình chồng tại xã T. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, bất đồng với nhau trong trong làm ăn kinh tế, nuôi dạy con chung, vợ chồng không thống nhất với nhau trong cuộc sống hàng ngày dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, hiện nay vợ chồng đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn vợ chồng anh đã trầm trọng, không còn có thể đoàn tụ với nhau được nữa. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị T.

2. Về con chung:

Anh T trình bày anh và chị T có 02 con chung tên là Lê Phương Anh sinh ngày 03/6/2003 và Lê Văn Minh Tú sinh ngày 25/02/2008. Con chung tên Lê Văn Minh Tú bị bệnh bẩm sinh nhận thức kém và cả hai con chung hiện đang do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Do vậy, khi ly hôn, anh có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi cả 02 con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung, anh trình bày để vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết với nhau và không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngày 07/6/2021 anh Lê Văn T có đơn trình bầy con chung tên là Lê Phương Anh sinh ngày 03/6/2003 hiện đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, khỏe mạnh, phát triển bình thường nên anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Lê Phương Anh khi ly hôn.

3. Về tài sản chung:

Anh T trình bày không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Lê Thị Thanh T là bị đơn trong vụ án và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Các Biên bản xác minh và Biên bản làm việc cùng ngày 25/02/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng và Công an xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng thể hiện: Anh Lê Văn T và chị Lê Thị Thanh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 02 vào ngày 13/01/2003. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống tại thôn B, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, bất đồng về quan điểm làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Do mâu thuẫn chị T và anh T đã sống ly thân, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng. Anh T có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết.

Về con chung: Anh T và chị T có hai con chung tên là Lê Phương Anh sinh ngày 03/6/2003 và Lê Văn Minh Tú sinh ngày 25/02/2008, cháu Tú bị bệnh bẩm sinh nhận thức kém hàng tháng được nhận trợ cấp dành cho người khuyết tật tại địa phương, cả hai con chung hiện nay đang ở cùng với anh T và được chăm sóc đầy đủ. Về tài sản chung của vợ chồng: Địa phương không nắm được và đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Văn T và chị Lê Thị Thanh T; về con chung: Giao cho anh Lê Văn T trực tiếp nuôi con chung tên là Lê Văn Minh Tú sinh ngày 25/02/2008, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là anh Lê Văn T vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Lê Văn T và chị Lê Thị Thanh T đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 02 vào ngày 13/01/2003 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên có xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Cho nên mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Anh T yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần xử cho ly hôn giữa anh T và chị T.

[3]. Về con chung: Anh T và chị T có 02 con chung tên là Lê Phương Anh sinh ngày 03/6/2003 và Lê Văn Minh Tú sinh ngày 25/02/2008. Khi ly hôn, anh T đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi cả hai con chung. Tuy nhiên đến ngày xét xử anh T không đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu nuôi con và cấp dưỡng nuôi con đối với cháu Lê Phương Anh với lý do cháu Lê Phương Anh hiện đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, khỏe mạnh, phát triển bình thường. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, anh T có khả năng, điều kiện nuôi con chung, cháu Lê Văn Minh Tú là đối tượng khuyết tật bẩm sinh nhận thực kém và hiện đang được anh T nuôi dưỡng, được chăm sóc đầy đủ, việc nuôi con chung của anh T vẫn đang ổn định, đảm bảo quyền, lợi ích của con chung. Con chung Lê Phương Anh đã đủ 18 tuổi và khỏe mạnh bình thường nên không đặt ra vấn đề giải quyết việc nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung đối với con chung Lê Phương Anh. Do vậy, cần giao con chung Lê Văn Minh Tú cho anh T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị T không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Anh T không có yêu cầu Tòa án giải quyết, chị T không có quan điểm trình bày gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Anh T và chị T có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lê Văn T và chị Lê Thị Thanh T.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Lê Văn Minh Tú sinh ngày 25/02/2008 (Là đối tượng khuyết tật theo Sổ lĩnh tiền trợ cấp xã hội hàng tháng cho người khuyết tật Lê Văn Minh Tú – 960 cấp ngày 13/7/2018 của Phòng Lao động thương binh và Xã hội huyện T, Hải Phòng) cho anh Lê Văn T trực tiếp nuôi, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Lê Văn T không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Lê Thị Thanh T không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Anh Lê Văn T không có yêu cầu Tòa án giải quyết và chị Lê Thị Thanh T không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Anh Lê Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015746 ngày 05 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Anh Lê Văn T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Anh Lê Văn T và chị Lê Thị Thanh T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 22/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:104/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về