Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 104/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 73/2021/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 4 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị M, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Bá H, sinh năm 1984.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Hàn Quốc. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Lê Thị M trình bày: Chị và anh Hoàng Bá H được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Hải Dương ngày 30/02/2008. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2008 thì anh H đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, thời gian đầu anh H có liên lạc và gửi tiền về cho chị nuôi con và trang trải cuộc sống. Kể từ năm 2010 anh H chơi bời, nợ nần, chị phải bán nhà, đất để gửi tiền sang trả nợ cho anh. Từ đó mỗi lần vợ chồng gọi điện lại xảy ra cãi nhau, bản thân chị muốn gìn giữ hạnh phúc gia đình nên đã trả nợ cho anh nhiều lần và mong muốn anh thay đổi, tuy nhiên anh tiếp tục chơi bời, nợ nần ngày càng nhiều, sau đó anh chấm dứt liên lạc với chị từ năm 2019 cho đến nay. Chị xác định vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Hoàng Bá H theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Hoàng Trung H, sinh ngày 13/5/2009. Chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) và tự nguyện không yêu cầu anh Huy cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Hoàng Thị Ph (là mẹ anh H) khai: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh H ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên anh H vẫn thông tin về gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh H biết. Thông qua gia đình, anh H trình bày quan điểm không đồng ý ly hôn, nhưng anh cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh nhất trí để chị M trực tiếp nuôi dưỡng con chung và đề nghị được giải quyết vắng mặt. Bà Ph và ông H (là bố anh H) có quan điểm: Anh H đi xuất khẩu lao động từ lâu, vợ chồng không còn liên lạc, quan tâm tới nhau nên tình cảm không còn. Ông, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị M.

Con chung của anh Huy, chị M là Hoàng Trung H khai: Trong trường hợp bố mẹ ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ là Lê Thị M Biên bản xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị M, anh H đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì anh H đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc đến nay chưa về nước, thời gian anh H đi nước ngoài đã lâu, vợ chồng chủ yếu sống xa nhau, không có gần gũi, chia sẻ. Nay chị M có đơn ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị M được ly hôn anh Hoàng Bá H. Về con chung: Giao con chung Hoàng Trung H cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, anh Huy không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Lê Thị M sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Hoàng Bá H có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Hải Dương, hiện anh H đang lao động tại Hàn Quốc, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị M không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh H ở Hàn Quốc. Tòa án đã yêu cầu gia đình anh H cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án cũng đã tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh H và gia đình đã thông báo cho anh H biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị M và anh H. Đồng thời Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai anh H vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt. Chị M vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị M và anh Hoàng Bá H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Hải Dương ngày 30/02/2008 nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2008 thì anh H đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc đến nay chưa về nước. Thời gian đầu anh H thường xuyên liên lạc và gửi tiền về cho chị M trang trải cuộc sống và nuôi con, sau đó anh chơi bời, nợ nần nên vợ chồng thường hay xảy ra cãi nhau. Bản thân chị M và gia đình mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng và khuyên bảo để anh suy nghĩ lại nên đã nhiều lần gửi tiền sang cho anh trả nợ, nhưng anh vẫn không thay đổi. Từ năm 2019 cho đến nay anh không còn liên lạc với chị M không còn quan tâm tới gia đình, vợ con. Thông qua gia đình, anh H có quan điểm không nhất trí ly hôn, nhưng anh không có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị M và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình, chính quyền địa phương. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị M ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Lê Thị M và anh Hoàng Bá H có một con chung là Hoàng Trung H, sinh ngày 13/5/2009, hiện đang ở với chị M. HĐXX xét thấy. Anh H đang lao động ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, hơn nữa anh và gia đình cũng nhất trí giao con chung cho chị M chăm sóc, nuôi dưỡng. Do vậy, HĐXX chấp nhận giao con chung Hoàng Trung H cho chị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung Hoàng Trung H. Chấp nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh Huy phải cấp dưỡng cho con. Nếu có căn cứ cho rằng chị Mỵ không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh H có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu giải quyết chia tài sản sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị M ly hôn anh Hoàng Bá H

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Lê Thị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Hoàng Trung H, sinh ngày 13/5/2009 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Hoàng Bá H thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Lê Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005842 ngày 13 tháng 4 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Hoàng Bá H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:104/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về