Bản án 104/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU – TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 104/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2020, tại Hội trường UBND xã B, huyện G, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 105/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:106/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Hoàng L, sinh năm: 1993, tại tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký NKTT: khu phố T, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh và nơi tạm trú hiện nay: Khu phố TA, thị trấn G, huyện G, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Hoàng P và bà Nguyễn Thị L; Vợ con chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28-7-2020, đến ngày 03-8-2020 bị tạm giam cho đến nay. “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo L là đối tượng nghiện ma túy, nên khoảng tháng 5-2020, bị cáo bắt đầu mua bán trái phép chất ma túy để có chất ma túy sử dụng và có tiền tiêu xài. Bị cáo nhiều lần điều khiển xe mô tô biển số 51Y6-9078 đến khu vực cầu G thuộc xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, mua chất ma túy của người tên T không rõ lý lịch, đem về nhà ở khu phố T, thị trấn G, phân ra thành nhiều bịch nhỏ cất giấu để sử dụng và bán cho người nghiện. Vào ngày 28-7-2020 bị cáo mua 01 bịch ma túy giá 5.000.000 đồng đem về nhà phân ra thành 08 bịch cất giấu để bán.

Khi người nghiện có nhu cầu mua ma túy sử dụng thì đến nhà của bị cáo để mua. Bị cáo đã bán ma túy cho những người nghiện, cụ thể như sau:

Bán ma túy cho anh Trần Văn S 01 lần 01 bịch 200.000 đồng vào ngày 26-7- 2020.

Bán ma túy cho anh Nguyễn Văn L 02 lần, lần thứ nhất 01 bịch 300.000 đồng vào ngày 26-7-2020, lần thứ hai 01 bịch 400.000 đồng vào ngày 27-7-2020.

Bán ma túy cho anh Nguyễn Thành N 04 lần, mỗi lần 01 bịch giá từ 1.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng, vào các ngày 22, 24, 26, 28 tháng 7-2020. Trong đó: Lần sau cùng khoảng 16 giờ 10 phút 28-7-2020, sau khi nhắn tin qua ứng dụng Facebook hỏi mua ma túy, N đến nhà của bị cáo đưa cho bị cáo 3.000.000 đồng và nhận 01 bịch ma túy do bị cáo đưa thì bị Công an huyện G đến bắt quả tang thu giữ trong túi quần của N 01 bịch nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể rắn được niêm phong (Ký hiệu M1); thu giữ của bị cáo 07 bịch nylon màu trắng bên trong chứa tinh thể rắn được niêm phong (Ký hiệu M2), 3.000.000 đồng và một số vật chứng có liên quan.

Tại Kết luận giám định số 1101 ngày 31-7-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu tinh thể rắn bên trong 01 bịch nylon màu trắng được niêm phong (Ký hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,0578 gam. Mẫu tinh thể rắn bên trong 07 bịch nylon màu trắng được niêm phong (Ký hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 1,8047 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bảng thống kê kèm theo.

Về kê biên tài sản: Qua xác minh thể hiện bị cáo không có sở hữu tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.

Tại bản Cáo trạng số: 110/CT-VKSGD ngày 02 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng cũng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo mức án từ 09 năm đến 10 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có lời nói sau cùng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Do muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy nên khoảng tháng 5-2020, bị cáo bắt đầu mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo nhiều lần điều khiển xe mô tô biển số 51Y6-9078 đến khu vực cầu G thuộc xã A, huyện B, tỉnh Tây Ninh, mua ma túy của người tên T không rõ lý lịch, đem về nhà phân ra thành nhiều bịch nhỏ cất giấu để sử dụng và bán cho người nghiện cụ thể:

Bán ma túy cho anh Trần Văn S 01 lần 01 bịch 200.000 đồng vào ngày 26-7- 2020.

Bán ma túy cho anh Nguyễn Văn L 02 lần, lần thứ nhất 01 bịch 300.000 đồng vào ngày 26-7-2020, lần thứ hai 01 bịch 400.000 đồng vào ngày 27-7-2020.

Bán ma túy cho anh Nguyễn Thành N 04 lần, mỗi lần 01 bịch giá từ 1.500.000 đồng đến 3.000.000 đồng, vào các ngày 22, 24, 26, 28 tháng 7-2020. Do đó có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo biết việc mua bán trái phép các chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không tuân thủ. Hành vi của bị cáo là trái pháp luật, xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã tự thú những lần phạm tội trước.

[4] Về hình phạt bổ sung thì thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đối với 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 1101/KL-KTHS có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh và chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý Nguyễn Thị Thùy L (còn lại 1,6650 gam Methamphetamine) là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng cùng sim 0908841452 và 01 mô tô hiệu Wave, màu tím, biển số 51Y6-9078 của bị cáo dùng để thực hiện tội phạm và 5.850.000 đồng do bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy mà có nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 cây cân tiểu li; 01 bộ sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại;

01 đoan ống nhựa màu trắng sọc vàng có một đầu vác nhọn; 10 bịch nylon màu trắng hàn kín ba đầu, một đầu khóa bóp có viền màu đỏ; 01 quẹt gas màu xanh; 20 đoạn ống hút nhựa màu đen là vật chứng không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Hoàng L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Lê Hoàng L 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28-7-2020.

2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 1101/KL-KTHS có dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tây Ninh và chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn N và trợ lý Nguyễn Thị Thùy L (còn lại 1,6650 gam Methamphetamine); 01 cây cân tiểu li; 01 bộ sử dụng ma túy; 01 cây kéo bằng kim loại; 01 đoạn ống nhựa màu trắng sọc vàng có một đầu vác nhọn; 10 bịch nylon màu trắng hàn kín ba đầu, một đầu khóa bóp có viền màu đỏ; 01 quẹt gas màu xanh; 20 đoạn ống hút nhựa màu đen.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng cùng sim 0908841452 và 01 mô tô hiệu Wave, màu tím, biển số 51Y6- 9078 và 5.850.000 đồng.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Hoàng L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về