Bản án 104/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 104/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn,tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 102/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Trương Phúc S, sinh ngày 04/6/1958 tại Lạng Sơn; Nơi cư trú: Số 01/5B, đường L, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 6/10; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trươg Đức L (đã chết) và bà Vi Thị L (đã chết); vợ: Lương Thị P, con: 02 con (lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1991); tiền sự: Không: tiền án: 01 (Bản án số 2285 ngày 24/11/1999 của toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cáo xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma tuý và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tổng hợp hai tội 20 năm tù, chưa được xoá án tích); nhân thân: Tại bản án số 99 ngày 16/11/1982 Toà án quân sự Quân khu I xử phạt 10 năm tù giam về tội cướp tài sản công dân (đã được xoá án tích); bị bắt tạm giữ ngày 02/4/2019, tạm giam ngày 05/4/2019 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

- Người chứng kiến:

1. Chị Trương Thị N. Có măt.

2. Ông Hoàng Văn T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 30 phút ngày 02/4/2019, tổ công tác Công an phường V, thành phố L đang làm nhiệm vụ kiểm tra lưu trú tại số nhà 1, ngõ 5b, đường L, phường V, thành phố L có Trương Phúc S và Trương Thị N (con gái Trương Phúc S), phát hiện Trương Phúc S có biểu hiện hoạt động phạm tội ma tuý, tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì Trương Phúc S giao nộp 09 gói giấy nhỏ bên trong chứa chất bột màu trắng, từ trong túi áo khoác len để trong phòng ngủ, đồng thời khai nhận 09 gói trên là ma tuý Heroin để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác lập biên bản sự việc, thu giữ tang vật và chuyển đến cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn theo quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Trương Phúc S khai nhận: Bản thân nghiện ma tuý từ năm 1998. Khoảng 8 giờ ngày 02/4/2019, Trương Phúc S ra khu vực ngã tư P (đường L – P) phường Đ, thành phố L gặp một người nam thanh niên khoảng 30 tuổi không biết họ tên, địa chỉ mua 10 gói ma tuý giá 1.000.000đồng, sau đó đem về nhà sử dụng hết 01 gói, còn 09 gói cất giấu và túi áo khoác len để trong phòng ngủ, mục đích sử dụng dần cho bản thân. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an phường V, thành phố L tiến hành kiểm tra lưu trú phát hiện thu giữ toàn bộ số ma tuý nói trên.

Tại kết luận giám định số 141/KL-PC09 ngày 07/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroin, có tổng khối lượng 0,615 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 18 tháng 6 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố Trương Phúc S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trương Phúc S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên toà, người chứng kiến chị Trương Thị N khai nhận: Ngày 02/4/2019 khi chị đang ở nhà cùng Trương Phúc S (bố đẻ) thì có lực lượng công an đến kiểm tra lưu trú và phát hiện trong túi ác khoác len màu vàng nhạt treo trong phòng ngủ của Trương Phúc S có 09 (chín) gói giấy nhỏ, trong chứa chất bột màu trắng và được bố chị (Trương Phúc S) khai nhận mua số ma tuý này từ trước đó. Việc bố chị mua số ma tuý này khi nào chị không được rõ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trương Phúc S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Trương Phúc S từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) phong bì đã niêm phong và 01 áo len dài tay màu vàng nhạt, mặt trước hai bên áo có túi. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và những chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 02/4/2019, Tổ công tác Công an phường V, thành phố Lạng Sơn đang làm nhiệm vụ kiểm tra lưu trú tại số nhà 1, ngõ 5b, đường L, phường V, thành phố L đã phát hiện Trương Phúc S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý gồm 09 gói đều là chất ma tuý Heroin có tổng khối lượng 0,615 gam, mục đích sử dụng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Phúc S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Trương Phúc S về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương Hiện nay, việc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy đang là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Chính vì vậy, mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đều phải bị xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm trước pháp luật.

[3] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân: Tại bản án số 99 ngày 16/11/1982 Toà án quân sự Quân khu I xử phạt 10 năm tù giam về tội cướp tài sản công dân, đã chấp hành xong hình phạt tù, về phần bồi thường dân sự, qua xác minh không có thông tin về việc thi hành án, nên không có căn cứ xác đình còn tiền án.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bản án số 2285 ngày 24/11/1999 của toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cáo xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma tuý và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, tổng hợp chung cả hai tội là 20 năm tù, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù năm 2013, chưa chấp hành hình phạt bổ sung. Lần phạm tội này được coi là tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân, cần xét xử bị cáo mức hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo và răng đe, phòng ngừa chung. Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội, để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng.

[8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 09/5/2019 xác định Trương Phúc S không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[09] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong mẫu vật ma túy còn lại sau giám định, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 áo len dài tay màu vàng nhạt, mặt trước hai bên áo có túi mà bị dùng làm nơi cất giấu ma tuý, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Đối với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[13] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51;điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Phúc S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trương Phúc S 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 02/4/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong và 01 áo len dài tay màu vàng nhạt, mặt trước hai bên áo có túi. (Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03 tháng 6 năm 2019).

4. Về án phí: Bị cáo Trương Phúc S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về