Bản án 104/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 104/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI CHIẾM ĐOẠT NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 04 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Ngô Văn B, sinh năm: 1984, tại: Tỉnh Vĩnh Long; thường trú: Ấp HA, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn T và bà Nguyễn Thị Ngọc T; hoàn cảnh gia đình: có vợ tên Lê Thị Mỹ H (đã ly hôn) và có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/11/2018 (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của của bị cáo: Ông Ngô Văn C, sinh năm: 1981 (có mặt).

Thường trú: Ấp HA, xã H, huyện V, tỉnh Vĩnh Long. 

Chỗ ở: 80/27 Bến PĐ, Phường M, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bào chữa: Ông Huỳnh Khắc T - Luật sư củaVăn phòng luật sư Nguyễn Văn V, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang bào chữa cho bị cáo (có mặt).

Bị hại: Trẻ Nguyễn Gia T, sinh ngày 30/5/2017.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: ông Nguyễn Thanh C, sinh năm: 1982 và bà Phạm Thị Ngọc H, sinh năm: 1977 (cha mẹ ruột của bị hại).

Cùng trú tại: B12/33 Ấp 2, xã TK, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm: 1954 (vắng mặt)

Trú tại: B12/33 Ấp 2, xã TK, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người làm chứng:

1/ Ông Hồ Văn M, sinh năm: 1994 (vắng mặt)

Trú tại: B12/33 Ấp 2, xã TK, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Bà Huỳnh Kim L, sinh năm: 1948 (vắng mặt)

Trú tại: B12/32A Ấp 2, xã TK, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 15 phút ngày 15/11/2018, Ngô Văn B đi bộ ngang qua phòng trọ số 7 thấy cửa phòng khép hờ, bà H đang ngồi ru bé T ngủ trên võng trong phòng trọ, B nhớ con nên nảy sinh ý định chiếm đoạt bé T về nuôi dưỡng. Lúc này B đẩy cửa, bước vào phòng bế bé T đi ra thì bị bà H ngăn cản, giằng co với B để giành lại bé T; B dùng tay gạt bà H và đi ra khỏi phòng trọ thì bà H truy hô “bắt cóc”. Nghe tiếng truy hô, anh Hồ Văn M (ở cùng dãy nhà trọ) đi ra thì thấy B đang ôm bé T thì bắt giữ B, lấy lại bé T giao bà H, đồng thời điện thoại báo Công an xã TK đến hiện trường tiếp nhận, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, B khai nhận có tiền sử bệnh tâm thần nhưng không có bệnh án, cũng không điều trị tại bệnh viện nào mà tự mua thuốc uống nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã trưng cầu giám định tình trạng tâm thần của bị can. Tại kết luận giám định số 742/KLGĐ ngày 21/3/2019 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực TP. Hồ Chí Minh đối với Ngô Văn B, kết luận:

-Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 15/11/2018, bị can có rối loạn tâm thần và hành vi khác do rượu (F10.8-ICD10) Hiện tại tâm thần bình thường.

-Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội ngày 15/11/2018, bị can hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Hiện tại bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

Tại Cáo trạng số 105/CT-VKS ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Ngô Văn B về tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi” theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

1. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng.

2. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trình bày lời luận tội, giữ quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Ngô Văn B với mức án từ 03 năm đến 04 năm tù.

3. Luật sư Thuận bào chữa cho bị cáo: thống nhất tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Luật sư nêu lên những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: nguyên nhân bị cáo phạm tội là do bị cáo nhớ con nên mới có ý định bắt bé T về nuôi, bị cáo phạm tội nhất thời, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, về trách nhiệm dân sự thì đại diện gia đình bị hại không yêu cầu gì. Từ những phân tích trên luật sư cho rằng mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là quá nghiêm khắc. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đồng thời cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

4. Đại diện hợp pháp của bị cáo trình bày: Thường ngày bị cáo rất thương các trẻ nhỏ, do bị cáo uống rượu nhiều nên bị cáo mới phạm tội. Kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

5. Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày 15/11/2018, bị cáo Ngô Văn B có hành vi dùng vũ lực đối với bà H nhằm chiếm giữ bé T (sinh ngày 15/11/2008), mục đích của bị cáo là để mang bé T về nuôi. Với hành vi đó bị cáo đã phạm tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 153 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[4] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Từ đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà đáng lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Lời bào chữa của luật sư Thuận nêu lên những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay ông Nguyễn Thanh C và bà Nguyễn Thị Ngọc H vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện ông Cường và bà H đã nhận lại trẻ Tường và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với bà Nguyễn Thị Thu H, trong quá trình giằng co với bị cáo, bà H cũng không có bị thương tích nên không yêu cầu bị cáo bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 153; điểm h, q, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Căn cứ khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[1] Tuyên bố bị cáo Ngô Văn B phạm tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi”.

[2] Xử phạt bị cáo Ngô Văn B 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/11/2018.

[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2019/HS-ST ngày 04/06/2019 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

Số hiệu:104/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Ngày 15/11/2018, Ngô Văn B đi bộ ngang qua phòng trọ số 7 thấy cửa phòng khép hờ, bà H đang ngồi ru bé T ngủ trên võng trong phòng trọ, B nhớ con nên nảy sinh ý định chiếm đoạt bé T về nuôi dưỡng. Lúc này B đẩy cửa, bước vào phòng bế bé T đi ra thì bị bà H ngăn cản, giằng co với B để giành lại bé T; B dùng tay gạt bà H và đi ra khỏi phòng trọ thì bà H truy hô “bắt cóc”. Nghe tiếng truy hô, anh Hồ Văn M (ở cùng dãy nhà trọ) đi ra thì thấy B đang ôm bé T thì bắt giữ B, lấy lại bé T giao bà H, đồng thời điện thoại báo Công an xã TK đến hiện trường tiếp nhận, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tòa án tuyên bố bị cáo Ngô Văn B phạm tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi”. Xử phạt bị cáo Ngô Văn B 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.