TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 104/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 101/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Dương Thành T, sinh năm 1984, tại tỉnh Long An; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp LT, xã LG, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn N (đã chết) và bà Lê Thị S, sinh năm 1937; Vợ: tên Phan Thị L, sinh năm 1988; hiện cư ngụ tại ấp LT, xã LG, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Buôn bán; con: Có 02 người, người lớn sinh năm 2013, người nhỏ sinh năm 2016; tiền sự, tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 16/7/2018, tạm giam ngày 22/7/2018 cho đến nay - có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 16/7/2018, trên Hương lộ 2 thuộc ấp AB, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện TB kiểm tra xe ôtô biển số 54S-4098 do tài xế Dương Thành T điều khiển, phát hiện trên xe có chứa 16.790 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 8.040 bao nhãn hiệu Jet, 5.900 bao nhãn hiệu Scott, 590 bao nhãn hiệu Hero, 2.260 bao nhãn hiệu Craven) nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang tạm giữ T cùng vật chứng để điều tra làm rõ.
Qua điều tra, thể hiện: Vào khoảng 18 giờ ngày 16/7/2018, T nhận được điện thoại của một người tên A (không rõ địa chỉ) thuê vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cho H (không rõ địa chỉ) từ khu vực cửa khẩu Tho Mo thuộc xã MQT, huyện ĐH, tỉnh Long An về tỉnh Bình Dương với số tiền công vận chuyển là 700.000 đồng thì T đồng ý. Sau đó, T đi xe ôm đến khu vực bãi đất trống thuộc thị trấn Hiệp Hòa, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để nhận xe nhưng A đã chất sẵn thuốc lá vào xe ô tô tải biển số 54S-4098. Sau khi nhận được xe, T điều khiển xe chạy đến khu vực gần ngã tư An Bình thuộc ấp AB, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh, thì xảy ra va chạm với xe môtô biển số 67N9-6925 do Nguyễn Phước V, sinh năm 1998 ngụ tại tổ 3, khóm TK 7, phường MH, thành phố LX, tỉnh An Giang điều khiển. Trong quá trình kiểm tra hiện trường, khám nghiệm phương tiện giao thông thì phát hiện trên xe ôtô biển số 54S-4098 do T điều khiển có chứa thuốc lá điếu nhập lậu nên đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Cáo trạng số: 102/CT-VKS ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng đã truy tố bị cáo Dương Thành T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Dương Thành T từ 05 đến 06 năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai ban đầu của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Thông qua đối tượng tên A, bị cáo nhận vận chuyển thuê thuốc lá điếu nhập lậu cho đối tượng tên H từ cửa khẩu Tho Mo thuộc xã MQT, huyện ĐH, tỉnh Long An về tỉnh Bình Dương với số tiền công vận chuyển là 700.000 đồng. Khi điều khiển phương tiện đến khu vực gần ngã tư An Bình thuộc ấp AB, xã AT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh, thì xảy ra va chạm với xe môtô biển số 67N9-6925 do Nguyễn Phước V điều khiển, qua khám xét phương tiện phát hiện trên xe do bị cáo điều khiển có chứa 16.790 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 8.040 bao nhãn hiệu Jet, 5.900 bao nhãn hiệu Scott, 590 bao nhãn hiệu Hero, 2.260 bao nhãn hiệu Craven). Tuy nhiên, tại biên bản hỏi cung bị can ngày 13/8/2018, cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thay đổi lời khai cho rằng Đặng Văn B, sinh năm 1980, ngụ ấp 2, xã MQĐ, huyện ĐH, tỉnh Long An cùng Phạm Phi C, sinh năm 1982, ngụ ấp HB2, xã HH, huyện ĐH, tỉnh Long An là người vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Sau khi xảy ra tai nạn giao thông thì B, C kêu bị cáo đến Công an huyện Trảng Bàng nhận là người vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa T và B nhưng không có cơ sở chứng minh; riêng C đã bỏ địa phương nên chưa làm việc được. Việc thay đổi lời khai của bị cáo là không có cơ sở, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, không có cơ sở chứng minh. Vì vậy, với những chứng cứ thu thập có trong hồ sơ đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo T phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, vi phạm pháp luật về hàng cấm, bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu nhưng bị cáo vẫn thực hiện nhằm hưởng lợi bất chính. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét đề nghị về hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp.
[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt có xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như:
- Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là người trực tiếp nuôi dưỡng mẹ là vợ Liệt sỹ. Thuộc gia đình chính sách, có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo đã thay đổi lời khai, nhưng không chứng minh được. Do đó, bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Qua xác minh, bị cáo Dương Thành T không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Riêng Đặng Văn B không đủ căn cứ chứng minh B tham gia vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu cùng T nên không đề cập xử lý; riêng Phạm Phi C hiện không có mặt ở địa phương nên chưa làm việc được; Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.
Đối với người A, H thuê T vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu hiện không rõ họ tên, địa chỉ và chưa làm việc được; Cơ quan điều tra đang tiếp tục làm rõ để xử lý sau.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng như sau:
Đối với xe ôtô biển số 54S-4098 do bà Võ Thị Kim D, sinh năm 1958, ngụ số 47/10A AC, phường 9, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh là chủ sở hữu. Vào năm 2010, bà D đã bán cho 01 người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ); Cơ quan CSĐT Công an huyện Trảng Bàng đã đăng thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không ai đến nhận. Cần giao cơ quan Thi hành án dân huyện Trảng Bàng quản lý và tiếp tục thông báo truy tìm chủ sở hữu trong thời hạn 01 năm, nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 004148; 01 giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật số: KC 653327; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự số: 0014688. Cần giao cơ quan Thi hành án dân huyện Trảng Bàng quản lý và xử lý theo quy định của pháp luật.
01 giấy phép lái xe mang tên Dương Thành T; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Dương Thành T. Không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.
01 điện thoại di động màu đen, hiệu Nokia có sim số 0986182661 là phương tiện liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 16.790 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 8.040 bao nhãn hiệu Jet, 5.900 bao nhãn hiệu Scott, 590 bao nhãn hiệu Hero, 2.260 bao nhãn hiệu Craven) là hàng cấm lưu hành. Cần giao Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng xử lý theo Quy định 20/2018/QĐ-TTg, ngày 26/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ để thu nộp Ngân sách Nhà nước.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
4. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 191; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Dương Thành T 05 (năm) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/7/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu 16.790 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm: 8.040 bao nhãn hiệu Jet, 5.900 bao nhãn hiệu Scott, 590 bao nhãn hiệu Hero, 2.260 bao nhãn hiệu Craven), Giao Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng xử lý, thu nộp Ngân sách Nhà nước.
Giao Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng quản lý xe ôtô tải biển số: 54S-4098, nhãn hiệu HUYNDAI; số loại: PORTER; số máy: D4BBV-438104; số khung: KMFXKN&BPVU-121942; năm sản xuất 1997, Hàn Quốc và tiếp tục thông báo truy tìm chủ sở hữu trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/11/2018), nếu không có ai đến nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen, hiệu Nokia; Model: TA-1034; CODE:059Z0X7; IMEI 1: 357339083994112; IMEI 2: 357339086994119, có sim số 0986182661.
Tuyên trả cho bị cáo T 01 giấy phép lái xe số: 80007900031 mang tên Dương Thành T; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Dương Thành T.
Tất cả các vật chứng liên quan do cơ quan Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng đang quản lý.
3. Về án phí: Bị cáo Dương Thành T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo; Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 104/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 104/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về