TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 104/2018/HS-ST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 100/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Vàng Thị M; tên gọi khác: Không; sinh năm 1986 tại huyện V, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A D (đã chết) và bà Lầu Thị Ch (đã chết); có chồng là Giàng A S, sinh năm 1984 và 03 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án: Không; tiền sự: Không;
Bị bắt từ ngày 26/7/2018, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người chứng kiến: Anh Giàng A C, sinh năm 1976, trú tại: Bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.
Người phiên dịch: Anh Sồng A P, sinh năm 1985; trú tại: Tiểu khu 10, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 26/7/2018, tổ công tác công an huyện V, làm nhiệm vụ tại bản B, xã V, huyện V, tỉnh Sơn La, Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra đối với Vàng Thị M, M đã giao nộp cho tổ công tác 01 hộp bút màu hồng bên trong có 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là nilon màu xanh, bên trong đựng 140 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, M khai nhận đó là Hồng phiến của M mua về mục đích là để bán kiếm.
Tang vật thu giữ gồm: 01 hộp bút màu hồng bên trong có 01 gói nilon màu đen, tiếp đến là nilon màu xanh, bên trong đựng 140 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY.
Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V ra lệnh và thi hành lệnh khám khẩn cấp chỗ ở của Vàng Thị M. Quá trình khám xét không phát hiện thu giữ tài liệu đồ vật gì.
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng 140 viên nén màu hồng thu giữ của Vàng Thị M được 15,04 gam, lấy 0,5 gam làm mẫu giám định, mẫu ký hiệu M. Mẫu M được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy, khối lượng ma túy.
Tại kết luận giám đinh số: 919 ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu M là ma túy, loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 15,04 gam loại chất Methamphetamine.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, bị cáo mua ma túy và cất giấu ma túy mục đích là để bán kiếm lời.
Tại bản cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 10/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Vàng Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng Thị M từ 08 (tám) năm tù đến 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trọng đựng 14,54 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 chiếc hộp bút màu hồng; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, bị cáo còn phải nuôi ba con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Vàng Thị M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Vàng Thị M khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ là Biên bản bắt người phạm tội quả, Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, Kết luận giám định số 919 ngày 30/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, lời khai của người chứng kiến anh Giàng A C, Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung bị can cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 26/7/2018, bị cáo Vàng Thị M đã có hành vi tàng trữ 15,04 gam Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Vàng Thị M phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định.
[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số nên Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự,
Xét hành vi phạm tội của bị cáo rất nghiêm trọng, hành vi đó là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lợi vẫn cố tình tàng trữ ma túy để bán kiếm lời. Vì vậy, phải xử lý nghiêm khắc cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.
Bị cáo Vàng Thị M đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Vàng Thị M còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Vàng Thị M mua của một người phụ nữ dân tộc Mông, không quen biết. Ngoài lời khai duy nhất của bị cáo không có chứng cứ nào khác nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý người bán ma túy cho Vàng Thị M.
[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 14,54 gam, 01 hộp bút màu hồng, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Vàng Thị M phạm tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Vàng Thị M 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2018 (là ngày bị bắt đối với bị cáo).
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng 14,54 gam methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 chiếc hộp bút màu hồng, 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng que thử ma túy.
3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 104/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 104/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về