Bản án 104/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 104/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 111/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Đặng Thanh T, tên gọi khác: M, sinh năm 1998, tại huyện G, tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: Ấp C, xã C1, huyện G, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Thanh V, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1977; vợ và con: chưa có; tiền án: không có; tiền sự: không có; bị bắt, tạm giữ từ ngày 07-6-2018 đến ngày 16-6-2018 tạm giam; bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn T1 (B), sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp A, xã C1, huyện G, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1/ Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1960 (vắng mặt).

2/ Anh Nguyễn Minh P, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã C1, huyện G, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 20 giờ 30 phút ngày 06-6-2018, tại ấp C, xã C, huyện G, tỉnh Tây Ninh, lực lượng phòng chống ma túy Công an huyện G bắt quả tang bị cáo Đặng Thanh T điều khiển xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 cất giấu trong người 01 bịch chất ma túy với mục đích bán lại cho người khác kiếm lời, tiến hành thu giữ vật chứng có liên quan để điều tra làm rõ.

Qua điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 05-6- 2018, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 đến gần Trường trung học phổ thông Lê Quý Đôn thuộc Phường 4, thành phố TN mua 01 bịch ma túy với số tiền 4.000.000 đồng của một người tên P1 không rõ địa chỉ đem đến bán cho một người tên T2 không rõ họ tên ở khu vực xã T3, huyện H, tỉnh Tây Ninh với giá 4.500.000 đồng. Sau đó, bị cáo tiếp tục quay lại gặp P1 mua 01 bịch ma túy giá 9.000.000 đồng đem đến khu vực chợ phường 4, thành phố TN bán cho một người thanh niên không rõ địa chỉ nhà ở huyện TB với giá 11.000.000 đồng.

Khoảng 18 giờ ngày 06-6-2018, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 đến gần Trường trung học phổ thông Lê Quý Đôn thuộc phường 4, thành phố T mua 01 bịch ma túy với số tiền 8.500.000 đồng của một người tên P1 đem về mục đích bán lại cho đối tượng nghiện ma túy để kiếm lời. Sau khi mua ma túy, bị cáo quay về nhà, khi đến khu vực ấp C, xã C1, huyện G, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang,

Tại Kết luận giám định số: 605/KL-KTHS ngày 08-6-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Tinh thể rắn màu trắng bên trong01 (một) bịch nylon màu trắng được hàn  kín gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Methamphetamine, khối lượng 20,0535 gam.

Tại Kết luận giám định số: 688/KL-KTHS ngày 19-6-2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 số khung và số máy không bị đục sửa.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 605/KL- KTHS, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Lê Đức Trọng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A37fw màu đen; 01 xe mô tô hiệu Wave alpha màu trắng biển số 70F1 – 508.62, số khung RLHHC1250FY326383, số máy HC12E-73264371 và tiền Việt Nam 4.878.000 đồng.

Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên.

Đối với Nguyễn Văn T1 không biết bị cáo mượn xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 để mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Tây Ninh không xử lý mà xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Riêng người tên P1, T2, người thanh niên ở huyện TB không rõ địa chỉ nên không có căn cứ để Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Tây Nin xác minh làm rõ.

Tại Cáo trạng số 112/CT-VKSGD ngày 23-10-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu đã truy tố bị cáo Đặng Thanh T (M) về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Thanh T (M) từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đủ căn cứ xác định: Khoảng 18 giờ ngày 06-6-2018, bị cáo Đặng Thanh T (M) là người nghiện ma túy đã điều khiển xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 đến khu vực Phường 4, thành phố TN mua 20,0535 gam chất ma túy, loại Methamphetamin đem đến khu vực ấp C, xã C1, huyện G, tỉnh Tây Ninh để bán lại cho người nghiện ma túy với mục đích kiếm lời thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. Do đó, hành vi của bị cáo xét thấy có đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an ở địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và đời sống xã hội, bị cáo cũng vì mục đích muốn có tiền một cách nhanh chóng để tiêu xài cá nhân nên đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, bất chấp pháp luật. Cho nên cần xử phạt tù bị cáo mới đủ sức răn đe và tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt, biết chấp hành pháp luật khi hòa nhập cộng đồng, nhằm đạt được mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, tỉnh Tây Ninh không kê biên. Mặt khác, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Vấn đề khác: Đối với người tên P1, T2, người thanh niên ở huyện TB không rõ địa chỉ nên không có căn cứ để Cơ quan điều tra Công an huyện G, tỉnh Tây Ninh xác minh làm rõ là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 605/KL- KTHS, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Lê Đức Trọng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A37fw màu đen của bị cáo dùng vào việc phạm tội, tiền Việt Nam 4.878.000 đồng, trong đó: 1.578.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước và 3.300.000 đồng của anh Nguyễn Văn T1 nên cần trả lại cho anh T1; 01 (một) xe mô tô hiệu Wave alpha màu trắng biển số 70F1 – 508.62, số khung RLHHC1250FY326383, số máy HC12E-73264371 của anh Nguyễn Văn T1 không biết bị cáo mượn để mua ma túy nên cần trả lại cho anh T1. Việc xử lý vật chứng là phù hợp với Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đặng Thanh T (M) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Đặng Thanh T (M) 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07-6-2018.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số: 605/KL-KTHS, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai và trợ lý Lê Đức Trọng.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo A37fw màu đen và tiền Việt Nam 1.578.000 đồng.

Trả lại cho anh Nguyễn Văn T1: tiền Việt Nam 3.300.000 (ba triệu ba trăm ngàn) đồng và 01 (một) xe mô tô biển số 70F1 – 508.62 hiệu Wave alpha màu trắng biển số 70F1 – 508.62, số khung RLHHC1250FY326383, số máy HC12E- 73264371.

(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Dầu theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25-10-2018)

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:104/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Dầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về