Bản án 103/2021/HS-PT ngày 14/09/2021 về tội trộm cắp tài sản và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 103/2021/HS-PT NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ CHỨA CHẤP TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 46/2021/TLPT-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Lê Kinh M do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2021/HS-ST ngày 01/03/2021 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Bình Định.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Kinh M, sinh năm 1991 tại Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông X và bà Y; có vợ: Z, sinh năm: 1989 và 01 con, sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ngoài ra còn có 06 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Z, Luật sư Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Bình, gửi bản bào chữa cho bị cáo và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 5-2020, Lê Kinh M và nhóm công nhân gồm X, Y, Z, K, L, M tiến hành thi công công trình lắp đặt hệ thống thông gió tại tầng hầm, tầng 14, tầng 31 và tầng thượng của tòa nhà “R”. Từ ngày 01-6-2020 đến ngày 01-7-2020, Lê Kinh M cùng đồng bọn đã nhiều lần lén lút chiếm đoạt dây điện của Công ty Cổ phần Q trong phòng Kỹ thuật ở tầng 14A của tòa nhà “R”; cụ thể Lê Kinh M đã thực hiện hành vi:

- Khoảng 17 giờ ngày 04-6-2020, Lê Kinh M rủ K, L lấy trộm dây điện. K và L đứng bên ngoài trông chừng còn M lén chui qua ống thông gió vào phòng Kỹ thuật ở tầng 14A lấy 10 cuộn loại 4mm2, 02 cuộn loại 6mm2. Cả ba bỏ dây điện vào 02 bao tải rồi đem cất tại kho vật tư của nhóm.

Chiều ngày 05-6-2020, Lê Kinh M liên hệ T điều khiển xe tải đến công trình tòa nhà “R” để thu mua tôn vụn phế liệu. M thông báo cho cả nhóm biết để ai có trộm được dây điện của Công ty Cổ phần Q thì gom lại nhờ T chở về nhà trọ. Sau đó, M và K theo xe nhờ T chở số dây điện này về đến đường V rồi thuê taxi chở về nhà trọ của nhóm. Ngày 09-6-2020, M thông báo cả nhóm biết để gửi dây điện trộm được cho M đem về nhà ở Thanh Hóa cất giữ rồi liên lạc người nhà đến lấy. Nghe vậy, K và X đưa cho M toàn bộ các cuộn dây điện đang cất giữ tại nhà trọ. M đem về Thanh Hóa tổng cộng 16 cuộn (12 cuộn dây điện của M, 02 cuộn dây điện của K, 02 cuộn dây điện của X) rồi cất giữ tại nhà.

- Khoảng 11 giờ ngày 25-6-2020, Lê Kinh M rủ K trộm dây điện hiệu P của Công ty Cổ phần Q. K đứng canh chừng bên ngoài còn M lén chui vào trong phòng Kỹ thuật ở tầng 14A thông qua lỗ thông gió lấy được 08 cuộn loại 4mm2, 01 cuộn loại 6mm2. Cả hai đem 09 cuộn dây điện giấu trong kho vật tư của nhóm.

Ngày 29-6-2020, Lê Kinh M thông báo cả nhóm gom dây điện đã trộm được đang để tại nhà trọ đưa M để gửi xe khách chở về nhà của M ở Thanh Hóa cất giữ rồi liên hệ người nhà đến lấy. L gửi 06 cuộn (02 cuộn loại 10mm2, 03 cuộn loại 6mm2, 01 cuộn loại 04 mm2), M gửi 04 cuộn (03 cuộn loại 4mm2, 01 cuộn loại 06 mm2), K gửi 02 cuộn (loại 4mm2), Y gửi 02 cuộn (loại 10mm2), cùng 09 cuộn của M để M gửi xe khách “Y” chở về nhà. M đã nhờ ông X nhận số dây điện này về nhà cất giữ.

Ngày 24-8-2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự L kết luận:

- 10 cuộn dây điện VCM hiệu P, loại dây đơn, ruột đồng, vỏ nhựa, tiết diện 4mm2, dài 100m, chưa qua sử dụng (bị chiếm đoạt ngày 04-6-2020) trị giá: 9.120.000 đồng.

- 02 cuộn dây điện VCM hiệu P, loại dây đơn, ruột đồng, vỏ nhựa, tiết diện 6mm2, dài 100m, chưa qua sử dụng (bị chiếm đoạt ngày 04-6-2020) trị giá: 2.730.000 đồng.

- 08 cuộn dây điện VCM hiệu P, loại dây đơn, ruột đồng, vỏ nhựa , tiết diện 4mm2, dài 100m, chưa qua sử dụng (bị chiếm đoạt ngày 25-6-2020) trị giá: 7.296.000 đồng.

- 01 cuộn dây điện VCM hiệu P, loại dây đơn, ruột đồng, vỏ nhựa, tiết diện 6mm2, dài 100m, chưa qua sử dụng (bị chiếm đoạt ngày 25-6-2020) trị giá: 1.365.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 01.3.2021 của Tòa án nhân dân thành phố L đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Kinh M phạm các tội “Trộm cắp tài sản” và “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Lê Kinh M 09 (chín) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Lê Kinh M 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt buộc Lê Kinh M phải chấp hành hình phạt chung là 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt của 06 bị cáo khác, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Ngày 15 tháng 3 năm 2021, bị cáo Lê Kinh M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bản luận cứ bào chữa của người bào chữa cho bị cáo: Đề nghị HĐXX xem xét miễn trách nhiệm hình sự đối với tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất tội “Trộm cắp tài sản” và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Lê Kinh M rủ L và K lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản thi công của Công ty Cổ phần Q để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt các cuộn dây điện. Bị cáo Lê Kinh M đã thực hiện 02 lần: Ngày 04-6-2020, Lê Kinh M rủ L và K lấy 10 cuộn loại 4mm2, 02 cuộn loại 6mm2, tổng giá trị 11.850.000 đồng; ngày 25-6-2020, Lê Kinh M rủ K lấy 08 cuộn loại 4mm2, 01 cuộn loại 6mm2, tổng giá trị 8.661.000 đồng.

Bị cáo Lê Kinh M còn 02 lần thực hiện hành vi chứa chấp tại nhà của cha đẻ ở Thanh Hóa các cuộn dây điện do các bị cáo khác lấy trộm, cụ thể: Ngày 09-6- 2020 cất giữ 04 cuộn loại 10mm2 của X và K, giá trị 9.100.000 đồng; ngày 29-6- 2020 cất giữ 04 cuộn loại 10mm2, 04 cuộn loại 6mm2, 6 cuộn loại 4mm2 của L, M, K và Y, tổng giá trị 29.132.000 đồng.

Do đó cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 323 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định nên chấp nhận. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; căn cứ vào tình tiết định khung hình phạt; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 15 tháng tù là phù hợp với các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo không có căn cứ nên không chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị giữ nguyên.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Kinh M 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 323; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Kinh M 06 tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Căn cứ khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự: Tổng hợp hình phạt, bị cáo Lê Kinh M phải chấp hành chung cho cả hai tội là 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSPT.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2021/HS-PT ngày 14/09/2021 về tội trộm cắp tài sản và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:103/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về