TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 103/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 20 tháng 04 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ T số 2786/2020/TLST- HNGĐ ngày 29/12/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/03/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 106/2021/QĐST-DS ngày 30/3/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Kiều T, sinh năm 1995.
Trú tại: 181/4 khu phố 10, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Huy H, sinh năm 1986.
Trú tại: 60/2, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
( Bà T có đơn xin vắng mặt, ông H vắng mặt không có T do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai của nguyên đơn bà Ngô Thị Kiều T trình bày: Bà T và ông H tự nguyện yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường T, Thành phố B, Tỉnh Đ. Quá trình chung sống không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ và đã sống ly thân. Nay bà không còn tình cảm với ông H nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đức Đ, sinh ngày 03/01/2016 và Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 31/01/2019. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vì T do bận công việc bà T đề nghị Tòa án cho bà được vắng mặt tại phiên tòa xét xử.
*Ông Nguyễn Huy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt tại các buổi làm việc cũng như tại phiên tòa xét xử nên không có lời trình bày.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Hôn nhân giữa bà T và ông H là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà T có căn cứ.
Về con chung: Hiện hai con chung là Nguyễn Đức Đ, sinh ngày 03/01/2016 và Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 31/01/2019 đang sống ổn định với bà T nên đề nghị Hội đồng xét xử giao hai cháu Đ và A cho bà T chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời ông Nguyễn Huy H không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Đương sự khai không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Bà Ngô Thị Kiều T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Huy H cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông H về việc thụ T vụ án, làm việc, hòa giải, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa. Ông H cố tình vắng mặt. Bà Ngô Thị Kiều T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử. Căn cứ Điều 227, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông H chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, Thành phố B, tỉnh Đ nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của bà T thì vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ nhau và đã sống ly thân. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với ông H để bà ổn định cuộc sống mới. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông H thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được, bà T và ông H đã sống ly thân, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải hàn gắn đoàn tụ nhưng bà T cương quyết ly hôn không đồng ý đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc ly hôn với ông Nguyễn Huy H.
[3] Về con chung: bà T và ông H có hai con chung là Nguyễn Đức Đ, sinh ngày 03/01/2016 và Nguyễn Quỳnh A, sinh ngày 31/01/2019 đang sống ổn định với bà T nên Hội đồng xét xử giao hai cháu Đ và A cho bà T chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời ông Nguyễn Huy H không phải cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung: Đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[5] Về nợ chung: Đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, bà T phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.
[7] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần ghi nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 207; Điều 227 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;
Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Kiều T. Bà Ngô Thị Kiều T được ly hôn với ông Nguyễn Huy H.
2. Về con chung: Giao hai con chung là Nguyễn Đức Đ, sinh ngày 03/01/2016 và Nguyễn Quỳnh a, sinh ngày 31/01/2019 cho bà T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời ông Nguyễn Huy H không phải cấp dưỡng nuôi con.
Ông Nguyễn Huy H được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự khai không có tài sản chung và nợ chung.
4. Về án phí: Bà Ngô Thị Kiều T phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa, biên lai số 0007783 ngày 16/12/2020. Bà T đã nộp xong án phí.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 103/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 103/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về