TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 103/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 112/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 03 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Bị đơn: Anh Vũ Xuân K; nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 09/03/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị T (nguyên đơn) trình bày:
Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 81 ngày 30 tháng 11 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, lao động và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn, chị T và anh K đã sống ly thân nhau. Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Xuân K.
Về con chung: Chị Nguyễn Thị T khai: Chị và anh Vũ Xuân K có 01 con chung là Vũ Minh Q, sinh ngày 17 tháng 5 năm 2011. Hiện chị T đang trự tiếp nuôi con. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày chị không yêu cầu anh Vũ Xuân K phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai chị và anh Vũ Xuân K không có tài sản chung nên chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Vũ Xuân K đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh K vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị Nguyễn Thị T xin ly hôn.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và anh K. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị T và anh K được ly hôn. Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K có 01 con chung là Vũ Minh Q, sinh ngày 17 tháng 5 năm 2011. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và nguyện vọng của con chung, đề nghị Tòa án giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Minh Q cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật là phù hợp với các Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Vũ Xuân K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T và Khải.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K xác lập năm 2010 là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn, chị T và anh K đã sống ly thân nhau. Chị T xin ly hôn anh K, Tòa án đã triệu tập anh K nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị T xin ly hôn nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh K đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K được ly hôn.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K có 01 con chung là Vũ Minh Q, sinh ngày 17 tháng 5 năm 2011. Trường hợp ly hôn, chị T có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, chị T là nguwoif trực tiếp nuôi con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Chị T có công việc và thu nhập ổn định, con Vũ Minh Q có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy, giao cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Minh Q cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.
[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu anh Vũ Xuân K phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T khai chị và anh Vũ Xuân K không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Xuân K.
2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Minh Q, sinh ngày 17 tháng 5 năm 2011 cho đến khi con Vũ Minh Q đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai số 0015795 ngày 29 tháng 03 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T, anh Vũ Xuân K vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 103/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 103/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về