Bản án 103/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và hợp đồng dân sự về hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 103/2019/DS-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VỀ HỤI

Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 170/2019/TLST-DS ngày 09 tháng 4 năm 2019 về “tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và hợp đồng dân sự về hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2019/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 8 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 299/2019/QĐST-DS ngày 27 tháng 8 năm 2019 và Thông báo số 17/2019/TB-TA ngày 13 tháng 9 năm 2019 về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị T1, sinh năm 1967; địa chỉ: tổ 03, ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Lưu Q, sinh năm 1984; địa chỉ: số 96/61, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; là người đại diện theo ủy quyền (theo giấy ủy quyền được Văn phòng công chứng Nhựt Q chứng nhận ngày 17 tháng 6 năm 2019); có mặt.

Bị đơn:

- Bà Tạ Kim T2, sinh năm 1965; địa chỉ: tổ 01, ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Lê Văn T, sinh năm 1963; địa chỉ: tổ 01, ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 18/9/2018 và các lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, ông T, bà T2 có tham gia các dây hụi do bà T1 làm chủ hụi, cụ thể như sau:

+ Dây hụi 5.000.000 đồng/tháng, mở hụi ngày 06/02/2017 âm lịch, có 14 hụi viên, ngày mãn hụi 06/02/2018 âm lịch (do năm 2017 có tháng nhuần), ông T tham gia 01 phần. Đến kỳ mở hụi ngày 06/5/2017 âm lịch, ông T lĩnh hụi với giá mở hụi 2.000.000 đồng. Bà T1 giao tiền lĩnh hụi cho bà T2 (vợ ông T), không làm biên nhận và không nhớ số tiền hụi đã giao. Sau khi lĩnh hụi, ông T không góp hụi chết từ kỳ mở hụi ngày 06/6/2017 âm lịch cho đến khi mãn hụi. Hàng tháng, bà T1 phải góp phần hụi chết thay cho ông T với tổng số tiền của 09 lần là 45.000.000 đồng.

+ Dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 29/5/2016 âm lịch, có 22 hụi viên, ngày mãn hụi 29/01/2018 âm lịch, ông T tham gia 01 phần. Đến kỳ mở hụi ngày 29/11/2016 âm lịch, ông T lĩnh hụi với giá mở hụi 770.000 đồng. Bà T1 giao tiền lĩnh hụi cho bà T2, không làm biên nhận và không nhớ số tiễn hụi đã giao. Sau khi lĩnh hụi, ông T góp hụi chết đến kỳ mở hụi ngày 29/4/2017 âm lịch. Ông T ngưng góp hụi chết từ kỳ mở hụi ngày 29/5/2017 âm lịch cho đến khi mãn hụi. Bà T1 góp hụi chết thay cho ông T mỗi tháng 2.000.000 đồng với tổng số tiền 20.000.000 đồng.

+ Dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 29/5/2016 âm lịch, có 22 hụi viên, ngày mãn hụi 29/01/2018 âm lịch, bà T2 tham gia 01 phần. Đến kỳ mở hụi ngày 29/09/2016 âm lịch, bà T2 lĩnh hụi với giá mở hụi 850.000 đồng. Bà T1 giao tiền lĩnh hụi cho bà T2, không làm biên nhận. Sau khi lĩnh hụi, bà T2 góp hụi chết đến kỳ mở hụi ngày 29/4/2017 âm lịch rồi ngưng góp hụi chết kể từ kỳ mở hụi ngày 29/5/2017 âm lịch cho đến khi mãn hụi. Bà T1 góp hụi chết thay cho bà T2 được 10 lần với tổng số tiền 20.000.000 đồng.

+ Dây hụi 20.000 đồng/ngày, mở ngày 19/9/2015, có 120 hụi viên, ngày mãn hụi 18/01/2016, bà T2 tham gia 50 phần. Sau khi lĩnh hụi, bà T2 không góp hụi chết cho Bà T1. Kết thúc dây hụi, khi chốt số nợ, bà T2 còn nợ Bà T1 5.800.000 đồng. Sau đó, bà T2 có trả được 800.000 đồng, còn nợ 5.000.000 đồng.

+ Dây hụi 20.000 đồng/ngày, mở ngày 19/01/2016, có 120 hụi viên, ngày mãn hụi 19/5/2016, bà T2 tham gia 50 phần. Sau khi lĩnh hụi, bà T2 không góp hụi chết cho Bà T1. Kết thúc dây hụi, khi chốt số nợ, bà T2 nợ Bà T1 5.800.000 đồng. Sau đó, bà T2 có trả được 800.000 đồng, còn nợ 5.000.000 đồng.

Tổng số hụi mà ông T, bà T2 còn nợ Bà T1 là 95.000.000 đồng.

Bên cạnh việc giao dịch hụi, Bà T1 có cho ông T, bà T2 vay tiền 02 lần với tổng số tiền 37.000.000 đồng, cụ thể:

+ Ngày 06/9/2016, ông T vay 20.000.000 đồng và hẹn vài ngày trả lại, không thỏa thuận lãi suất.

+ Ngày 26/6/2017, bà T2 vay 17.000.000 đồng, hẹn 03 ngày sau trả lại, không thỏa thuận lãi suất.

Tổng tiền hụi và tiền vay mà ông T, bà T2 còn nợ Bà T1 là 132.000.000 đồng. Sau đó, ông T, bà T2 có trả dần tiền hụi được 3.000.000 đồng còn lại 129.000.000 đồng đến nay chưa trả.

Bà T1, bà T2 không lập biên nhận nợ nhưng sự việc tranh chấp giữa hai bên được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã M ngày 14/3/2018. Khi đó, bà T2 thừa nhận có nợ Bà T1 tiền vay và tiền hụi tổng cộng 129.000.000 đồng. Bà T1 yêu cầu bà T2, ông T có trách nhiệm trả cho Bà T1 số tiền 129.000.000 đồng (gồm: nợ hụi 92.000.000 đồng và nợ vay 37.000.000 đồng; yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật từ ngày 15/11/2018 đến khi Tòa án xét xử.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: Tờ tự khai ngày 15/11/2018 của bà Lê Thị T1, biên bản hòa giải do Ủy ban nhân dân xã M thực hiện ngày 14/3/2018, biên bản hòa giải tại ấp M ngày 30/3/2017 (bản photo).

- Theo lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, bị đom bà Tạ Kim T2 cho rằng, bà T2 có tham gia hụi do Bà T1 làm chủ và đã lĩnh hết các phần hụi mà bà T2 tham gia nhưng góp lại hụi chết không đầy đủ. Bà T2 thừa nhận còn nợ Bà T1 số tiền hụi 87.000.000 đồng.

Đối với số tiền vay, bà T2 có vay của Bà T1 số tiền 37.000.000 đồng, mỗi ngày trả lãi 170.000 đồng và trả được khoảng 01 tháng. Sau đó, bà T2 lĩnh hụi ngày do Bà T1 làm chủ và trả số tiền vay 37.000.000 đồng. Cho nên, bà T2 không còn nợ bà T1 tiền vay.

Sau đó, khi chốt nợ, bà T2 còn nợ Bà T1 tiền hụi 87.000.000 đồng. Bà T2 trả dần được 3.500.000 đồng nên còn nợ lại 83.500.000 đồng. Bà T2 đồng ý trả dần cho Bà T1 mỗi ngày 50.000 đồng đến khi hết số tiền còn nợ.

- Bị đơn ông Lê Văn T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa,

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm. Bên cạnh đó, ông Q còn khai, bà T2, ông T cùng tham gia các dây hụi, vay tiền từ Bà T1 nhưng có lần ông T đại diện tham gia, có lân bà T2 đại diện tham gia. Ông Q rút lại yêu cầu bị đơn trả lãi; chỉ buộc bị đơn trả nợ hụi, vay với tổng số tiền 129.000.000 đồng.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn ông T, bà T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Bà T2, ông T tham gia các dây hụi do Bà T1 làm chủ và vay tiền của Bà T1, còn nợ lại số tiền 129.000.000 đông theo sự thừa nhận của bà T2 tại biên bản hòa giải ngày 14/3/2018 do Ủy ban nhân dân xã M lập.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bà T2 thừa nhận số nợ ít hơn nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh.

Theo đơn khởi kiện, Bà T1 yêu cầu bà T2, ông T trả số nợ 129.000.000 đồng và trả lãi kể từ ngày 15/11/2018. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyên của nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu trả lãi.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 463, 466, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015, các Điều 146, 147, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà T1; buộc bà T2, ông T liên đới trả cho Bà T1 với số tiền 129.000.000 đồng; đình chỉ yêu cầu khởi kiện tính lãi suất đã bị rút; buộc ông T, bà T2 phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Thị T1 khởi kiện yêu cầu bà Tạ Kim T2 và ông Lê Văn T trả nợ hụi và nợ vay. Bà T2, ông T đang cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới nên yêu cầu kiện của bà T1 thuộc tham quyển giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trước khi phiên tòa được mở, các bị đơn bà Tạ Kim T2, ông Lê Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T2, ông T theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

[3] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng:

Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho ràng, đối với nợ hụi, bà T2, ông T có tham gia 03 dây hụi tháng và 02 dây hụi ngày do Bà T1 làm chủ. Sau khi hốt các phần hụi đã tham gia, bà T2, ông T không góp hụi chết nên Bà T1 phải góp thay cho bà T2, ông T với số tiền 95.000.000 đồng gồm: 45.000.000 đồng (đối với dây hụi 5.000.000 đồng/tháng, mở ngày 06/02/2017 âm lịch); 20.000.000 đồng (đối với dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 29/5/2016 âm lịch); 20.000.000 đồng (đối với dây hụi 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 29/5/2016 âm lịch); 5.000.000 đồng (đối với dây hụi 20.000 đồng/ngày, mở ngày 19/9/2015) và 5.000.000 đồng (đối với dây hụi 20.000 đồng/ngày, mở ngày 19/01/2016).

Đối với nợ vay, ông T, bà T2 có vay của Bà T1 02 lần với tổng số tiền 37.000.000 đồng, gồm: ngày 06/9/2016, vay 20.000.000 đồng, hẹn vài ngày trả lại, không thỏa thuận lãi suất; ngày 26/6/2017, vay 17.000.000 đồng, hẹn 03 ngày sau trả lại, không thỏa thuận lãi suất. Sau khi vay, ông T, bà T2 chưa trả tiền vay cho Bà T1.

Sau đó, ông T, bà T2 trả dần tiền hụi được 3.000.000 đồng nên còn nợ 129.000.000 đồng (gồm nợ hụi 92.000.000 đồng, nợ vay 37.000.000 đồng).

Bà T2 thừa nhận có tham gia các dây hụi do bà T1 làm chủ và đã lĩnh hết các phần hụi mà bà T2 đã tham gia nhưng góp lại hụi chết không đầy đủ nên còn nợ 87.000.000 đồng.

Đối với số tiền vay, bà T2 thừa nhận có vay của Bà T1 số tiền 37.000.000 đồng, mỗi ngày trả lãi 170.000 đồng và trả được khoảng 01 tháng. Sau đó, bà T2 sử dụng tiền lĩnh hụi ngày do bà T1 làm chủ trả hết số tiền vay 37.000.000 đồng.

Đến khi chốt nợ hụi, bà T2 còn nợ Bà T1 87.000.000 đồng và đã trả dần được 3.500.000 đồng nên còn nợ lại 83.500.000 đồng.

Như vậy, lời khai của bà T1, bà T2 mâu thuẫn với nhau về số tiền hụi còn nợ; thống nhất với nhau về số nợ vay nhưng bà T2 cho rằng đã thanh toán xong nợ vay.

Trong khi đó, theo biên bản hòa giải ngày 03/12/2017 do Tổ hòa giải ấp M, xã M lập, ông T thừa nhận ông T, bà T2 có nợ Bà T1 số nợ 87.000.000 đồng (gồm: 37.000.000 đồng nợ vay và 50 triệu đồng nợ hụi) như ý kiến của Bà T1 vào thời điểm đó. Đồng thời, theo biên bản hòa giải ngày 14/3/2018 do Ủy ban nhân dân xã M lập, thể hiện ông T, bà T2 có nợ Bà T1 tiền hụi, tiền vay cho đến khi kết thúc hụi với tổng số tiền 129.000.000 đồng, trong đó nợ vay 37.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ban hành Thông báo số 03/TB-TA ngày 02/7/2019 yêu cầu ông T, bà T2 cung cấp lời khai và giao nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh về ý kiến, yêu cầu của Bà T1, ý kiến của ông T, bà T2 nhưng ông T, bà T2 không thực hiện.

Vì vậy, có cơ sở xác định, ông T, bà T2 cùng tham gia xác lập quan hệ hụi, quan hệ vay tiền với Bà T1 và nợ lại Bà T1 với tổng số tiền tính đến ngày 14/3/2018 là 129.000.000 đồng (gồm nợ hụi 92.000.000 đồng và nợ vay 37.000.000 đồng); không có cơ sở xác định bà T2 có trả lãi, trả xong nợ vay, chỉ nợ hụi 87.000.000 đồng và đã trả nợ hụi được 3.500.000 đồng như ý kiến của bà T2.

[4] Về yêu cầu khởi kiện của Bà T1:

Theo đơn khởi kiện, Bà T1 yêu cầu bà T2, ông T trả số nợ hụi, nợ vay 129.000.000 đồng và tính lãi theo quy định của pháp luật kể từ ngày 15/11/2018 đến khi Tòa án xét xử.

Tuy nhiên, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn tự nguyện rút lại yêu cầu trả lãi chậm trả.

Vì vậy, Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Bà T1 theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; buộc bà T2, ông T có nghĩa vụ trả cho Bà T1 số nợ hụi, nợ vay 129.000.000 đồng.

[5] Về phương thức thanh toán: Bà T2 yêu cầu trả dần mỗi ngày 50.000 đồng cho đến khi dứt nợ nhưng người đại diện hợp pháp của nguyên đơn không chấp nhận. Cho nên, phương thức thanh toán sẽ được xem xét trong giai đoạn thi hành án.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà T2, ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán cho Bà T1 là 6.450.000 đồng.

Bà T1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho Bà T1 số tiền tạm ứng án phí 3.225.000 đồng mà Bà T1 đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, 466, 468, 470, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 147, 244, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T1 về việc yêu cầu bà Tạ Kim T2, ông Lê Văn T trả lãi chậm thanh toán.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T1.

Buộc bà Tạ Kim T2, ông Lê Văn T có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị T1 số nợ hụi và nợ vay 129.000.000 (một trăm hai mươi chín triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Tạ Kim T2 và ông Lê Văn T phải chịu 6.450.000 (sáu triệu, bốn trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm

Bà Lê Thị T1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Lê Thị T1 số tiền tạm ứng án phí 3.225.000 (ba triệu, hai trăm hai mươi lăm nghìn) đồng mà Bà T1 đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2016/0012883 ngày 08/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Lê Thị T1 có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Tạ Kim T2 và ông Lê Văn T được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đinh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

573
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2019/DS-ST ngày 09/10/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và hợp đồng dân sự về hụi

Số hiệu:103/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về