Bản án 103/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 103/2017/HSST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Hôm nay, ngày 28 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 95/2017/HSST ngày 23 tháng 11 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2017/HSST-QĐ ngày 15 tháng 12 năm 2017, đối với bị cáo: Lại Thị L; Sinh năm 1969.

Nơi sinh: Xóm 16, xã B, huyện G, tỉnh N.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 16, xã B, huyện G, tỉnh N. Nơi cư trú: Nhà nghỉ MĐ, tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện G, tỉnh N.

Nghề nghiệp: Kinh Doanh; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Lại Văn Mô (đã chết) và bà: Phan Thị Chùm; chồng là: Phan Văn Hưng (đã chết); Có 02 con: Lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1990; Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 02/11/2017 đến ngày 04/11/2017. Hiện tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 42 ngày 04/11/2017 của cơ quan CSĐT công an huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định.

- Người làm chứng:

1. Anh Trần Văn N, sinh năm 1975

Địa chỉ: Xóm 5, xã G1, huyện G2, tỉnh N.

2. Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1992

Địa chỉ: xóm 6, xã G3, huyện G2, tỉnh N

3. Chị Tiêu Thị H, sinh năm 1975

Địa chỉ: xóm 11, xã G4, huyện G2, tỉnh N

4. Chị Trần Thị V, sinh năm 1989

Địa chỉ: Xóm 16, xã B, huyện G2, tỉnh N

5. Ông Nguyễn Sinh H, sinh năm 1961

Địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện G2, tỉnh N

Tại phiên tòa: Có mặt: bị cáo; người làm chứng Chị Trần Thị V; Còn lại vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 01-11-2017 Trần Văn N và Nguyễn Mạnh T đến nhà nghỉ MĐ thuộc tổ dân phố L, thị trấn Q, huyện G do Lại Thị L quản lý với mục đích để mua dâm. Khi đến nhà nghỉ MĐ, Nam và T gặp Lại Thị L, N đặt vấn đề với L thuê phòng nghỉ và bảo L bố trí cho một người để N tâm sự (ý bảo L bố trí cho N một gái bán dâm để N mua dâm), L hiểu ý N muốn mua dâm nên nhất trí và bảo N vào phòng 202 chờ, còn L vào phòng 101 bảo Tiêu Thị H (trước đó khoảng 20 giờ 30 H được L gọi xuống nhà nghỉ của L chơi và H đang ở trong phòng 101) là gái bán dâm lên phòng 202 bán dâm cho khách và đưa cho H 01 bao cao su. H đồng ý lên phòng 202 bán dâm cho N, còn T ngồi ngoài uống nước chờ N. Đến khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày trong lúc Trần Văn N và Tiêu Thị H đang mua bán dâm trong phòng 202 nhà nghỉ MĐthì bị tổ công tác Công an huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định phát hiện lập biên bản bắt người có hành vi phạm pháp quả tang. Thu giữ tại phòng 202 một vỏ bao cao su và một ruột bao cao su đã qua sử dụng. Thu của Lại Thị L 01 điện thoại di động OPPO A39, thu của Tiêu Thị H 01 điện thoại di động Nokia 1280, thu tại quầy lễ tân 01 cuốn sổ ghi chép. Khám xét khẩn cấp cơ quan công an còn thu giữ 05 bao cao su nhãn hiệu Condom Hua Lei chưa qua sử dụng do Lại Thị L giao nộp đưa về Công an huyện Giao Thủy. Về số tiền mua bán dâm nếu không bị bắt giữ thì sau khi mua bán dâm xong, L mới thu của N 200.000đ và trả cho gái bán dâm Tiêu Thị H 100.000đ còn lại 100.000đ là tiền phòng và tiền nước.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy, Lại Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 98/CT - VKS ngày 22-11-2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Lại Thị L về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự 1999.

Tại phiên tòa, Lại Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu trên nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy là đúng, không oan. Bị cáo xin đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy luận tội sau khi xem xét, phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lại Thị L phạm tội “Chứa mại dâm”

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 254; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Điều 60 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Lân từ 18 tháng đến 24 tháng tù, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng (bị cáo đã bị tạm giữ từ 02/11/2017 đến 04/11/2017).

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số bao cao su và vỏ bao cao su thu giữ tại nhà nghỉ Minh Đức.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc mẹ già yếu.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Khoảng 21 giờ, ngày 01-11-2017 Trần Văn N đến Nhà nghỉ MĐ do Lại Thị L quản lý mục đích để mua dâm. L sắp xếp bố trí cho Tiêu Thị H bán dâm cho N tại phòng 202 Trong lúc N và H đang mua bán dâm, L chưa kịp thu tiền mua dâm thì bị cơ quan công an bắt quả tang.

Như vậy hành vi của Lại Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Lại Thị L về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

 [3] Hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những ảnh hưởng đến trật tự công cộng, nếp sống văn minh, lành mạnh, đạo đức, thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa dân tộc mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe danh dự, nhân phẩm của con người, là mầm mống lây truyền vi rút HIV- AIDS và các bệnh xã hội khác, gây dư luận xấu trong xã hội. Vì vậy Hội đồng xét xử cần phải xử phạt bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn chồng mất sớm, chăm sóc bố mẹ già, hai con làm ở xa. Bị cáo là lao động chính trong gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương. Do vậy, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ 01năm đến 07 năm”

Tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “ Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”

Do mức hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 nhẹ hơn mức hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 vì vậy áp dụng điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử sẽ xem xét ấn định mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, chưa chiếm hưởng được số tiền bất chính. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Nên xử lý bị cáo bằng hình phạt tù nhưng không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo ấn định thời gian thử thách là thỏa đáng đồng thời phù hợp với quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 254 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế từ một năm đến năm năm.”, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Nhưng theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

 [4] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu cho tiêu hủy 01 ruột bao cao su và 1 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei đã qua sử dụng và 05 bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei chưa qua sử dụng.

Đối với Trần Văn N và Tiêu Thị H đã có hành vi mua, bán dâm. Xét thấy hành vi của Nam và Hiền chưa đến mức phải xử lý về hình sự nên Công an huyện Giao Thủy đã xử lý bằng biện pháp hành chính.

Đối với 2 chiếc điện thoại di động thu giữ của Lại Thị L và Tiêu Thị H và 01 cuốn sổ thu giữ của L, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị cáo và Tiêu Thị H là phù hợp.

 [5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Lại Thị L phạm tội “Chứa mại dâm”. Áp dụng khoản 1 Điều 254; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 Điều 2 nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội khóa 14 ngày 20 tháng 6 năm 2017; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt Lại Thị L 24 (hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo thời gian thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 02-11-2017 đến ngày 04-11-2017).

Giao bị cáo Lại Thị L cho Ủy ban nhân dân thị trấn Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tịch thu cho tiêu hủy 01 ruột bao cao su và 1 vỏ bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei đã qua sử dụng và 05 bao cao su nhãn hiệu Condom Hualei chưa qua sử dụng (theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23-11-2017 giữa Công an huyện Giao Thủy và Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Lại Thị L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

506
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 103/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:103/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về