Bản án 1024/2020/DS-PT ngày 11/11/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất (đường mương)

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1024/2020/DS-PT NGÀY 11/11/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT (ĐƯỜNG MƯƠNG)

Trong ngày 11/11/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 469/2020/DSPT ngày 05/10/2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất (đường mương)”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 200/2020/DS-ST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5292/2020/QĐ-PT ngày 20/10/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hắc L, sinh năm 1964 (có mặt) Địa chỉ: A, Khu phố B, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc Y, sinh năm 1963 Địa chỉ: A1, khu phố B1, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1987 (có mặt) Địa chỉ: A1, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. (theo Giấy ủy quyền ngày 08/07/2019 tại Văn phòng Công chứng Đông Thành phố – BL.67) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1950 (có mặt) Địa chỉ: A3, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Nguyễn Thị Tuyết T, sinh năm 1987(có mặt) 3. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1984 (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: A1, phường C, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn trình bày:

Vào năm 1997 nguyên đơn (Nguyễn Hắc L) nhận chuyển nhượng của ông Ngô Quý L1 phần đất có diện tích là 116,28m2 (chiều rộng 6,8m, chiều dài 17,lm) tọa lạc tại địa chỉ số A1, Khu phố 2, phường C, quận D; thuộc một phần thửa 96 (96-1), tờ bản đồ thứ 03 bộ địa chính xã C, huyện D (theo tài liệu 1992); thuộc lô thửa BK 35, tờ bản đồ thứ 25, phường C, quận D (theo tài liệu đo năm 2005).

Trong thửa 96-1 có một miếng đất nhỏ được nguyên đơn và con cháu bà Liên Thị M (là chủ đất đã sang nhượng lại cho ông Ngô Quý L1) thỏa thuận vào năm 2004 chừa lại để làm mương thoát nước như hiện nay; ông là người đóng thuế cho con mương này. Phần đất còn lại của thửa 96-1 như hiện nay đã được Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho nguyên đơn theo giấy chứng nhận hồ sơ gốc số 6926/2008/GCN ngày 23/10/2008.

Khoảng giữa năm 2016 bà Nguyễn Ngọc Y tiến hành xây dựng nhà tại địa chỉ A, khu phố 2, phường C, quận D, bị đơn đã lấn chiếm con mương chung, cụ thể: Đổ xà bần xuống mương, cắm cọc sắt + xi măng xuống mương, đặt vô số ống xả thải xuống mương, trổ cửa sổ ra mương. Sự việc đã được Ủy ban nhân dân phường C hòa giải thành, nhưng bà Y vẫn không thực hiện.

Vì vậy, ông khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét giải quyết:

- Buộc bà Nguyễn Ngọc Y phải có trách nhiệm nạo vét xà bần, bao cát lấn chiếm trên đường mương thoát nước có diện tích lấn chiếm khoảng 6m chiều dài khoảng 15m chiều ngang thuộc thửa đất số 96 - 1 thuộc phường C, quận D;

- Tháo dỡ các trụ xi măng, trụ sắt đóng xuống mương;

- Tháo dỡ các ống xã nước thải như cam kết trong biên bản đã thỏa thuận tại phường C để trả con mương về hiện trạng ban đầu có chiều dài 17m và chừa hành lang bảo vệ mương theo quy định.

Bị đơn Nguyễn Ngọc Y có đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Tuyết T trình bày:

Từ lúc ông Nguyễn Hắc L khởi kiện ra Tòa án, gia đình bà đã thực hiện xong việc nạo vét xà bần, lắp ống xả thải theo thỏa thuận với nguyên đơn.

Hiện nay chỉ còn một trụ xi măng do không phải của gia đình bà đóng xuống nên gia đình bà không thực hiện việc nhổ lên, do đó bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông L là nhổ trụ xi măng lên khỏi con mương và trả lại con mương cho thông thoáng theo bản vẽ ngày 05/11/2019 của Trung tâm đo đạc Bản đồ Sở Tài nguyên và môi trường Thành phô Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày:

Bà cho rằng con mương nguyên đơn kiện bà Y là của gia đình bà, không liên quan đến nguyên đơn. Bà đề nghị bị đơn không lấn ra mương nữa, đề nghị gia đình bị đơn giữ con mương sạch sẽ và đề nghị nguyên đơn nhổ trụ xi măng lên là xong.

Ý kiến của bà Nguyễn Thị Tuyết T, ông Nguyễn Văn H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Bà T, ông H thống nhất với ý kiến của bị đơn và không có ý kiến gì thêm.

Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã đưa vụ án ra xét xử và quyết định tại Bản án sơ thẩm số 200/2020/DS-ST ngày 11/08/2020 như sau:

“1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hắc L tại phiên tòa sơ thẩm, cụ thể:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hắc L về việc buộc bà Nguyễn Ngọc Y phải có trách nhiệm nhổ trụ (cọc) xi măng lên khỏi con mương và trả lại con mương cho thông thoáng theo bản vẽ ngày 05/11/2019 của Trung tâm đo đạc Bản đồ Sở Tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh.” Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 03/09/2020 nguyên đơn ông Nguyễn Hắc L kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm, yêu cầu xét xử phúc thẩm: hủy toàn bộ bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, và trình bày yêu cầu kháng cáo như sau:

- Nguyên đơn không tranh chấp quyền sử dụng đất con mương mà chỉ yêu cầu bị đơn chấm dứt hành vi đổ xà bần xuống mương và lắp đặt ống xả thải xuống mương.

- Sau khi khởi kiện, các bên đã có thỏa thuận và bị đơn đã đồng ý nạo vét xà bần và gỡ bỏ các đường ống xả thải ra mương. Nay hiện vẫn còn một đường ống xả thải và một cây trụ xi măng, yêu cầu bị đơn tháo dỡ. Do bà N tự nguyện nhổ bỏ cọc xi măng nên nguyên đơn đồng ý cùng bà N chịu trách nhiệm nhổ bỏ cọc xi măng này.

- Do bị đơn có hành vi vi phạm buộc nguyên đơn phải khởi kiện, chi phí đi lại, thời gian công sức có thể không đề cập nhưng các chi phí bao gồm chi phí thẩm định tại chỗ 3.000.000đ và chi phí đo vẽ 4.688.000đ và án phí dân sự sơ thẩm sao lại buộc nguyên đơn phải chịu. Yêu cầu xem xét lại về các khoản chi phí này, nguyên đơn đồng ý chịu 50%.

Bà T đại diện của bị đơn trình bày:

- Bị đơn có đổ xà bần xuống mương và đã khắc phục xong việc nạo vét xà bần.

- Bị đơn đã tháo dỡ các ống nước xả thải nhà bị đơn xuống mương, hiện chỉ còn một đường ống có sẵn theo hiện trạng trước đây, bị đơn không sử dụng nhưng nguyên đơn yêu cầu thì đồng ý sẽ cắt bỏ, tháo gỡ đường ống này.

- Đối với các loại chi phí phục vụ tố tụng và án phí sơ thẩm như nguyên đơn trình bày, để hòa giải và vui vẻ các bên, bị đơn đồng ý chịu 50%.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị N trình bày:

Đường mương nước xả đó là của gia đình chúng tôi để sử dụng chung cho các hộ trong gia đình, nguyên đơn có mua nhà đất nên được sử dụng chung. Nhà bị đơn có một đường mương thoát nước riêng nhưng đã tự lấp lại để lấy mặt bằng, nay sử dụng chung với đường mương thoát nước của phía chúng tôi nên chúng tôi không đồng ý. Cọc trụ xi măng có thể do một hộ nào đó trong gia đình chúng tôi cắm xuống mương, nhưng bị đơn đã đổ thêm xi măng bao quanh gốc trụ. Nay bị đơn không nhổ bỏ, tôi đồng ý tự bỏ chi phí nhổ bỏ trụ xi măng này. Yêu cầu bị đơn tháo gỡ đường ống xả nước của nhà bị đơn còn lại dưới mương.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm trước khi nghị án, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo: Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự đã tự nguyện thỏa Tận được về cách giải quyết toàn bộ vụ án và thỏa Tận này không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sử bản án sơ thẩm theo hướng công nhận thỏa Tận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hòa giải thành tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo nguyên đơn nộp trong thời hạn và đã đóng tạm ứng án phí theo quy định nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Người tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, người đại diện bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa. Riêng ông Nguyễn Văn H là con của bị đơn có cùng ý kiến với bị đơn, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt ông và ông không có yêu cầu độc lập, không kháng cáo. Căn cứ Khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định chung.

[2] Về nội dung kháng cáo, nguyên đơn yêu cầu xem xét lại chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ thẩm cùng trách nhiệm của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp, nguyên đơn khẳng định không tranh chấp quyền sử dụng đất của con mương mà chỉ yêu cầu bị đơn chấm dứt hành vi xả thải và đổ xà bần xuống mương để lấn chiếm con mương – thực chất đây là quan hệ tranh chấp quyền sử dụng con mương thoát nước thuộc quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất, do đó Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý là đúng quan hệ tranh chấp.

Về thỏa thuận của các đương sự: Tại phiên tòa các đương sự đã hòa giải được với nhau về toàn bộ nội dung giải quyết vụ án, xét thấy thỏa thuận này là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng thống nhất và đề nghị công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, căn cứ Điều 300, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, như sau:

- Bà Nguyễn Ngọc Y có trách nhiệm nạo vét phần xà bần, rác thải đã xả đổ xuống mương. (Bà Y đã thực hiện xong phần nạo vét mương).

- Bà Nguyễn Ngọc Y chịu trách nhiệm cắt và tháo gỡ toàn bộ đường ống nước của gia đình bà xả ra mương. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

- Ông Nguyễn Hắc L và bà Nguyễn Thị N chịu trách nhiệm tự nhổ bỏ trụ cọc xi măng trên con mương.

- Chi phí thẩm định giá là 3.000.000 đồng và chi phí đo vẽ là 4.688.000 đồng do nguyên đơn và bị đơn mỗi bên chịu 50%. Bà Nguyễn Ngọc Y có nghĩa vụ nộp lại 50% chi phí tố tụng ông L đã tạm ứng nộp là 3.300.000 đồng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Ông Nguyễn Hắc L được nhận lại 3.300.000 đồng chi phí tố tụng do bà Nguyễn Ngọc Y nộp tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Án phí dân sự sơ thẩm: nguyên đơn và bị đơn mỗi bên chịu 50%, do sửa án sơ thẩm nên án phí dân sự sơ thẩm được tính lại theo quy định tại Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, như sau:

- Do hòa giải thành tại phiên tòa nên các đương sự phải chịu 100% án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ, ông Nguyễn Hắc L và bà Nguyễn Ngọc Y mỗi người phải nộp 150.000đ tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

- Ông L đã nộp đủ án phí và được nhận lại 150.000đ từ số tiền tạm nộp án phí 300.000đ theo biên lai T số 0003154 ngày 19/06/2029 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thủ Đức.

Án phí phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên nguyên đơn kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm theo Khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, được nhận lại tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 147 và Khoản 2 Điều 148, Điều 271, 272, 273, 276, 300, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Hắc L.

ng nhận sự thỏa thuận của các đương sự, sửa bản án sơ thẩm số 200/2020/DS-ST ngày 11/08/2020 của Tòa án nhân dân quận D, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1.1. Bà Nguyễn Ngọc Y có trách nhiệm nạo vét phần xà bần, rác thải đã xả đổ xuống đường mương thoát nước (được xác định tại Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 05/11/2019 của Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo hợp đồng số 22693/TTĐĐBĐ- CNTĐ). Bà Y đã thực hiện xong.

1.2. Bà Nguyễn Ngọc Y chịu trách nhiệm cắt và tháo gỡ toàn bộ đường ống nước thải của gia đình bà xả ra đường mương nêu trên. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

1.3. Ông Nguyễn Hắc L và bà Nguyễn Thị N chịu trách nhiệm tự nhổ bỏ trụ cọc xi măng trên đường mương này.

2. Về chi phí thẩm định giá là 3.000.000 (Ba triệu) đồng và chi phí đo vẽ theo hợp đồng số 22693/TTĐĐBĐ-CNTĐ với Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh là 4.688.000 (Bốn triệu sáu trăm tám mươi tám ngàn) đồng do nguyên đơn và bị đơn mỗi bên chịu 50%.

Bà Nguyễn Ngọc Y có nghĩa vụ nộp lại số tiền là 3.844.000 (Ba triệu tám trăm bốn mươi bốn ngàn) đồng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Ông Nguyễn Hắc L được nhận lại số tiền 3.844.000 (Ba triệu tám trăm bốn mươi bốn ngàn) đồng chi phí phục vụ tố tụng do bà Nguyễn Ngọc Yến nộp tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: nguyên đơn và bị đơn mỗi bên chịu 50%, ông Nguyễn Hắc L và bà Nguyễn Ngọc Y mỗi người phải nộp 150.000 (Một trăm năm mươi ngàn) đồng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Ông Nguyễn Hắc L đã nộp đủ án phí sơ thẩm và được nhận lại 150.000 đồng từ số tiền tạm nộp án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003154 ngày 19/06/2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thủ Đức.

4. Án phí dân sự phúc thẩm: nguyên đơn ông Nguyễn Hắc L kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được nhận lại 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0057671 ngày 03/09/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thủ Đức.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy đinh tai Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1024/2020/DS-PT ngày 11/11/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất (đường mương)

Số hiệu:1024/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về