Bản án 102/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 102/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 83/2021/QĐST- HGNĐ, ngày 02 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; Nơi cư trú: Thôn B 1, xã T, huyện T, thành phố H; Vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt).

- Bị đơn: A Nguyễn Văn P; Nơi cư trú: Thôn B 1, xã T, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và A Nguyễn Văn P kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo P tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 28 tháng 8 năm 2000, sau khi cưới vợ chồng về ăn ở cùng gia đình A P tại thôn B 1, xã T, huyện T, thành phố H. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc và sinh được hai con chung, cho đến nay thì ngày càng nhiều mâu thuẫn, căng thẳng. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, A P đi làm không lo gánh vác kinh tế gia đình cùng chị, trong cuộc sống vợ chồng thường hay xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau, mâu thuẫn vợ chồng đến nay đã kéo dài và không còn khả năng đoàn tụ. Do mâu thuẫn nên chồng đã sống ly thân nhau và không còn quan tâm nhau, nay chị T đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn A Đào Văn P.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày, chị và A P có 02 con chung tên: Đào Văn C, sinh năm 1994 và Đào Văn A, sinh năm 1996. Khi ly hôn hiện nay cả hai con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày vợ chồng có tài sản chung song chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn A Đào Văn P vắng mặt tại phiên tòa, song đã có bản tự khai trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với lời khai của chị T về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị T không hiểu A nên dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng căng thẳng và thường hay xảy ra cãi mắng nhau không có tiếng nói chung đến nay mặc dù tuổi đã cao nhưng không thể hàn gắn được nữa, chị T đã ra ngoài sinh sống. Nay chị T quyết tâm ly hôn quan điểm của A P mong muốn chị T suy nghĩ lại để vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau sửa chữa khuyết điểm nuôi dạy các con nhưng nếu chị T không nghe, A P không có ý kiến gì đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Về con chung: A và chị T có 02 con chung tên Đào Văn C, sinh năm 1994 và Đào Văn A, sinh năm 1996. Khi ly hôn hiện nay cả hai con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: A Đào Văn P trình bày vợ chồng có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn A Đào Văn P vắng mặt nên chưa chấp hành đúng pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn A Đào Văn P; Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn A Đào Văn P; Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và A Đào Văn P có 02 con chung tên: Đào Văn C, sinh năm 1994 và Đào Văn A, sinh năm 1996. Khi ly hôn hiện nay cả hai con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên chị T và A Phon không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết; về tài sản chung: Chị T khai vợ chồng có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn A Đào Văn P vắng mặt chưa có ý kiến trình bày cụ thể về tài sản chung nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết; về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T vắng mặt, song có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn A Đào Văn P đã được Tòa án tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân Chị Nguyễn Thị T và A Đào Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32, ngày 28/8/2000 là hôn nhân hợp pháp. Tài liệu, chứng cứ thể hiện: Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, nghi ngờ nhau, do mâu thuẫn căng thẳng không thể hàn gắn được nên vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm nhau. Nay để ổn định cuộc sống, làm ăn chị T quyết tâm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn A Đào Văn P. Quá trình giải quyết vụ án, A P vắng mặt, song đã có quan điểm trình bày mong muốn chị T suy nghĩ lại để vợ chồng về đoàn tụ, nếu chị T quyết tâm xin ly hôn A P không có ý kiến gì đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết. Hội đồng xét xử, xét: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và A P đã kéo dài, trầm trọng khả năng đoàn tụ không còn, chị T quyết tâm xin ly hôn, A P mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nhưng không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm hòa giải, do vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn A Đào Văn P.

[3] Về con chung Chị Nguyễn Thị T và A Đào Văn P thống nhất trình bày vợ chồng có 02 con chung tên Đào Văn C, sinh năm 1994 và Đào Văn A, sinh năm 1996. Khi ly hôn hiện nay cả hai con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động nên chị T và A P không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung Chị Nguyễn Thị T trình bày vợ chồng có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết, bị đơn A Đào Văn P vắng mặt chưa có ý kiến trình bày cụ thể về tài sản chung, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí sơ thẩm Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 92, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn A Đào Văn P.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015669, ngày 05 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố H. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2021/HNGĐ-ST ngày 18/06/2021 về ly hôn 

Số hiệu:102/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về