Bản án 102/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 102/2020/HSST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 110/2020/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

- Bị cáo: m Minh Q, sinh năm 1981, tại thành phố Hồ Chí Minh.

HKTT: Khu Đ, thị trấn Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Thợ sửa điện tử; giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: không; Con ông Lâm Ch và bà Trần Thị Kim Ng; Có 02 anh, chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1974, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Vợ: Văn Thị Tuyết Ng (đã ly hôn), có 01 con tên Lâm Gia D, sinh năm 2019; Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 04/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước ra Quyết định số 18/QĐ-TA ngày 04/5/2018 đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong thời gian đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị cáo về chịu tang cha nhưng đã trốn không chấp hành thời hạn còn lại đến nay.

Về nhân thân: Ngày 11/5/2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xử phạt 24 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đã chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/5/2020 Ch đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Lành Thị H, sinh năm 1979. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

2. Nông Văn Th, sinh năm 1965. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

3. Chu Huệ Ch, sinh năm 2000. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn 4, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 5 năm 2020, đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện Bù Đăng phối hợp với Công an xã Bom Bo kiểm tra tại nhà của bà Lành Thị H tại thôn 4, xã Bom Bo, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Kiểm tra phòng của Lâm Minh Q (Q sống chung với Chu Huệ Ch là con gái của bà H như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn) thì phát hiện trên nền gạch trong phòng 01 gói ny lon bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá; trong túi xách màu đen để cách giường ngủ khoảng 30cm có 01 túi ny lon bên trong có chứa 10 viên nén màu xanh là ma túy MDMA nên tổ công tác đã lập biên bản bắt người quả tang đối với Lâm Minh Q, đồng thời thu giữ niêm phong tang vật là các gói ma túy có chữ ký của Q. Ngoài ra, còn thu giữ 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen và số tiền 9.700.000đ.

Tại Kết luận giám định số: 123/2020/GĐ-MT ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Gói M1 (thu dưới nề gạch) là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,1692 gam; M2 (thu trog túi xách) là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 25,7573 gam; M3 (thu trong túi xách) là ma túy, loại MDMA có khối lượng là 4,5409 gam, các gối trên đều có chữ ký của Q.

Tại bản cáo trạng số: 111/CT –VKS ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Lâm Minh Q về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h Khoản 3 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, nên giữ Ng nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Minh Q phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Về hình phạt, đề nghị áp dụng điểm h Khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lâm Minh Q từ 11 năm đến 12 năm 06 tháng tù; Về vật chứng vụ án, đề nghị tịch thu tiêu hủy 03 phong bì niêm phong ký hiệu 123M1, 123M2, 123M3 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước; Trả lại Ch bị cáo 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, có một Chếc bể màn hình ngoài và số tiền 9.700.000đ; Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo luật định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lâm Minh Q thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến về kết luận giám định, vật chứng vụ án và tranh luận mức hình phạt đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng, bị cáo hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt Ch bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Ngày 27/5/2020 Lâm Minh Q đón xe khách từ bến xe Thành Công Bù Đăng, tỉnh Bình Phước đến Bến xe Miền Đông, Thành phố Hồ Chí Minh thì xuống xe rồi đón xe ôm đi đến khu vực Quận 8. Tại đây, Q gặp một người phụ nữ không rõ nhân thân lai lịch và mua của người này 01 gói ma túy dạng bột với số tiền 15.000.000đ và 10 viên ma túy với số tiền 1.500.000đ rồi Q Ch tất cả vào túi nylon và đón xe khách về nhà bà Lành Thị H tại thôn 4, xã Bom Bo, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Tại đây Q vào phòng ngủ của Q sử dụng một ít, số còn lại để trên nền nhà. Đến khoảng 14 giờ 40 phút, ngày 28/5/2020 thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số: 123/2020/GĐ-MT ngày 03/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước kết luận thì số ma túy bị cáo Q cất giữ là Methamphetamine, có khối lượng 25,9265 gam và loại MDMA có khối lượng 4,5409 gam, tổng khối lượng 02 chất ma túy là 30,4674 gam.

Từ những căn cứ trên đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Lâm Minh Q là tàng trữ 02 chất ma túy có tổng khối lượng 30,4674 gam đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự; Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn thỏa mãn nhu cầu sử dụng Ch cá nhân nên đã phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 11/5/2011 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xử phạt 24 tháng tù về Tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, đã chấp hành xong; Ngày 04/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước ra Quyết định số 18/QĐ-TA đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong thời gian cai nghiện bắt buộc bị cáo về chịu tang cha nhưng đã trốn không chấp hành thời hạn còn lại; Vì vậy, cần xử bị cáo mức án nghiêm để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có con còn nhỏ, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên cũng cần xem xét giảm nhẹ Ch bị cáo một phần khi quyết định hình phạt thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu tiêu hủy 03 phong bì được niêm phong ký hiệu 123M1, 123M2, 123M3 của phòng KTHS Công an tỉnh Bình Phước; Đối với 02 điện thoại và số tiền 9.700.000đ không chứng minh được có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên trả lại Ch bị cáo.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Lâm Minh Q phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lâm Minh Q 11 (mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/5/2020.

Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định trong 03 phong bì được niêm phong ký hiệu 123M1, 123M2, 123M3 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

Tuyên trả lại Ch bị cáo số tiền 9.700.000đ và 02 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung màu đen trong đó có 01 Chếc bể màn hình ngoài.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0009823, ngày 27/11/2020 của Ch cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Lâm Minh Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:102/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về