Bản án 102/2020/HS-PT ngày 13/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 102/2020/HS-PT NGÀY 13/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 02 năm 2020, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 50/2020/TLHS- PT ngày 06 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q1 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án huyện TT, thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1960, tại huyện KM, tỉnh HD; Nơi cư trú: Thôn AB, xã HH, huyện KM, tỉnh HD; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/10; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị S2 (đã chết); Vợ là Vũ Thị Minh To1; và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2000.

Theo danh bản, chỉ bản số 126 lập ngày 02/4/2019 tại Công an huyện TT thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị bắt tạm giam ngày 01/4/2019. Được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 27/8/2019. Bị cáo tại ngoại (có mặt)

Bị hại: Bà Thái Thị T1, sinh năm 1961; Nơi cư trú: số 16B đường NTH, phường YK, quận HĐ, thành phố Hà Nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29/12/2004, Trung đoàn 916 - Sư đoàn 371 - Quân chủng PK-KQ - Bộ Quốc Phòng ký hợp đồng với ông Nguyễn Minh Thl(SN:1956, trú tại: 12A ngách 378/58 TK, phường B, quận TH, TP Hà Nội) về việc cho ông Th1 thuê khu đất rộng 32,4 ha thuộc thôn 10, xã TH, huyện TT, thành phố Hà Nội để làm trang trại trồng cây ăn quả. Năm 2008 ông Th1 và bà Vũ Thị Minh T 01 (SN: 1963, trú tại: thôn AB, xã HH, huyện KM, tỉnh HD) cùng nhau góp vốn trồng 800 cây bưởi Diễn xung quanh khu đất. Ngày 01/10/2013,ông Th1 thỏa thuận ký hợp đồng với bà Thái Thị T1 (SN: 1961, HKTT: 16B, NTH, YK, HĐ, Hà Nội) cho bà T1 thuê lại 15 ha đất để trồng cây ăn quả. Sau khi thuê đất bà T1 đã trồng hơn 1000 gốc bưởi Da xanh và khoảng 200 gốc bưởi Diễn quanh khu đất và cho một số hộ thuê lại. Năm 2015,ông Th1 cho Q1 và vợ của Q1 là bà Vũ Thị Minh T 01 trông coi một phần đất diện tích khoảng 04 ha cạnh khu trang trại của bà T1. Tháng 7/2017 do mâu thuẫn trong hợp đồng thuê đất với bà T1 nên ông Th1 nói với chị Nguyễn Thị N1 (SN: 1981, trú tại: số 7, QT, BĐ, Hà Nội) dự định cho chị N1 thuê lại 15 ha đất của bà T1 thuê. Sau khi chị N1 cùng ông Th1 xuống xem khu đất, chị N1 biết được bà T1 đang thuê nên chị N1 không làm hợp đồng thuê đất nữa. Khoảng tháng 11/2017, bà T1 mua khoảng 07 tấn phân lợn được đóng vào trong bao tải để rải rác trong khu vườn để bón gốc bưởi. Khoảng đầu năm 2018, Q1 đến nhà ông Th1 ăn cơm hỏi ông Th1 về việc xin đánh số bưởi Diễn từ trong trang trại của bà T1 mà trước đó vợ Q1 và ông Th1 trồng để chuyển về trang trại của Q1 để trồng.ông Th1 đồng ý và nói với Q1 là khi nào đánh bưởi thì gọi ông và bà T1 đến.

Khoảng 7 giờ 30 phút, ngày 06/3/2018, trong lúc bà T1 không có mặt tại khu đất, Q1 thuê nhóm thợ đào cây gồm: anh Bùi Văn V1 (SN: 1982); chị Nguyễn Thị H1 (SN: 1982); anh Nguyễn Công M1 (SN: 1988); anh Đinh Văn Tu1 (SN: 1991); anh Nguyễn Văn P1 (SN: 1982); anh Kiều Cao H1 (SN: 1984); anh Đinh Văn MA1 (SN: 1989) đều trú tại: Thôn C2, xã TX, huyện TT, thành phố Hà Nội; anh Bùi Văn HU1 (SN: 1968); anh Bùi Văn Q1 (SN: 1997) đều trú tại: thôn ĐR, xã ĐX, huyện QO, thành phố Hà Nội; anh Nguyễn Văn B1 (SN: 1980, trú tại: Thôn TM 2, xã YB, huyện KS, tỉnh HB đến khu trang trại của bà T1 đào gốc bưởi để mang về khu trang trại của mình trồng. Tuy nhiên Q1 không phân biệt được loại bưởi nên đã cho nhóm thợ đào nhầm 36 gốc bưởi Da Xanh của bà T1. Trong lúc nhóm thợ đào gốc bưởi thì Q1 phát hiện trong khu vườn của bà T1 có nhiều bao tải phân lợn để rải rác trong vườn nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt số phân trên. Q1 gọi điện cho chị N1 để hỏi lấy số phân đó. Tuy nhiên chị N1 không phải là người quản lý khu đất nên bảo Q1 gọi cho ông Thịnh. Q1 không gọi cho ông Th1 và thuê anh Nguyễn Văn L1 (SN: 1972), anh Nguyễn Văn C1 (SN: 1970), anh Trần Khắc L2 (SN: 1966) đều trú tại: Thôn 10, xã TH, huyện TT, thành phố Hà Nội đến chở số phân lợn được đóng trong bao tải trong khu trang trại của bà T1 mang về khu trang trại của minh. Bà T1 nhận được T1 tin đã trình báo sự việc với cơ quan Công an.

Tang vật thu giữ:

+ 489 bao tải phân.

+ 36 cây bưởi da xanh.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 03/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TT kết luận:

+ 489 bao tải phân nặng 7.335 kg có tổng giá trị là 5.868.000 đồng.

+ 36 cây bưởi có tổng giá trị là 4.920.000 đồng.

Ngày 07/3/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện TT đã trao trả cho bà Thái ThịTl toàn bộ số tang vật trên.

Về dân sự: Bà Thái Thị T1 yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn Q1 bồi thường tổng cộng 202.000.000đ (Hai trăm linh hai triệu đồng).

- Đối với việc bị cáo thuê nhóm thợ đào gốc bưởi trong khu vườn của bà T1 do bị cáo đã hỏi ông Thịnh, được ông Th1 đồng ý. Đồng thời trước đây ông Th1 và bà T 01 (vợ bị cáo) đã cùng nhau góp vốn để trồng khoảng 800 gốc bưởi Diễn trước khi cho bàT1 thuê trang trại. Khi cho người đào gốc bưởi, Q1 không phân biệt được bưởi Diễn với bưởi Da Xanh nên đã đào nhầm 36 gốc bưởi Da Xanh của bà T1. Vì vậy không đủ căn cứ để xử lý bị cáo Q1 trộm 36 gốc bưởi Da Xanh của bà T1.

- Đối với việc bị cáo khai trước khi lấy số phân lợn của bà T1 đã điện thoại cho chị Nguyễn Thị N1t xin ý kiến, chị N1 đồng ý nên bị cáo mới lấy. Căn cứ tài liệu điều tra thu thập được, Cơ quan CSĐT xác định lời khai trên của bị cáo Q1 là không có căn cứ.

- Đối với nhóm thợ chở phân thuê cho bị cáo không biết đó không phải là tài sản của bị cáo và không biết hành vi của bị cáo Q1 là trộm cắp tài sản nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

- Đối với ông Nguyễn Minh Th1, chị Nguyễn Thị N1, không chỉ đạo, không biết việc bị cáo Q1 lấy trộm phân của bà T1, do đó CQĐT không đề cập xử lý trong vụ án này.

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS-TT ngày 27/5/2019 và Công văn số 275/CV-VKS ngày 16/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TT, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Nguyễn Văn Q1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại bản án số 87/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Văn Q1 phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Văn Q1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 01/4/2019 đến ngày 27/8/2019.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Không đồng ý với bản án sơ thẩm ngày 21/11/2019, bị cáo đã có đơn kháng cáo với nội dung kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Q1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai làm theo sự chỉ đạo của ông Thịnh, khi lấy số bao tải phân Q1 có hỏi chị Nguyệt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kết luận vụ án và đề nghị:

- Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

- Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của bị cáo Nguyễn Văn Q1, lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ thấy: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử về tội "Trộm cắp tài sản" là có căn cứ, không oan.

Xét kháng cáo của bị cáo thấy mặc dù bị cáo khai không phạm tội nhưng căn cứ các tài liệu điều tra thấy Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, không oan. Tại phiên tòa không có tình tiết mới nên không có căn cứ xem xét kháng cáo của bị cáo. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015

Xử phạt: Nguyễn Văn Q106 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tình từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2019 đến ngày 27/8/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Nguyễn Văn Q1 trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung: Mặc dù tại phiên tòa bị cáo khai làm theo sự chỉ đạo của ông Nguyễn Minh Th1 nhưng căn cứ lời khai của ông Nguyễn Minh Th1 tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và của người làm chứng phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 06/3/2018, lợi dụng sự vắng mặt của bà Thái Thị T1 chủ sở hữu tài sản tại khu vực thuộc thôn 10, xã TH, huyện TT, thành phố Hà Nội. Q1 đã thuê người sang vườn nhà bà Thái Thị T1 trộm 489 bao tải phân lợn khối lượng 7.335 kg có giá trị 5.868.000 đồng mang về khu vườn của mình quản lý sử dụng. Hành vi của Q1 đã bị Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q1, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Q1 là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo đã lợi dụng sự vắng mặt của người bị hại, chủ tài sản khu vườn thuộc thôn 10, xã TH, huyện TT, thành phố Hà Nội, bị cáo đã thuê người sang vườn của người bị hại lấy trộm 489 bao tài phân lợn trị giá 5.868.000 đồng đem về trang trại của mình. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã căn cứ hành vi phạm tội và xem xét tình tiết giảm nhẹ để xử phạt Nguyễn Văn Q1 hình phạt 06 (Sáu) tháng tù là có căn cứ, không oan. Tại phiên tòa không có tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Văn Q1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 87/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện TT, thành phố Hà Nội.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn Q1 phạm tội "Trộm cắp tài sản"

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q1, 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 01/4/2019 đến ngày 27/8/2019.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2020/HS-PT ngày 13/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:102/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về