Bản án 102/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 102/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21/11/2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1095/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 72/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14/11/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đàm Thị T, sinh năm 1984; HKTT: khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên lạc: Phường X, Quận T, Thành phố H, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lưu Thanh B, sinh năm 1974; HKTT: Khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/7/2019, bản tự khai nguyên đơn bà Đàm Thị T trình bày:

Bà Đàm Thị T và ông Lưu Thanh B tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã T, tỉnh B được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41/2004, quyển số 11 ngày 24/5/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc. Tuy nhiên, đến năm 2010 vợ chồng bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hòa hợp, hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn hay cãi vã, vợ chồng sống không hạnh phúc. Ngoài ra, ông B nhiều lần đi uống rượu về nhà thường đánh đập vợ, dùng những lời lẽ không hay xúc phạm bà T. Vợ chồng đã nhiều lần nói chuyện để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng cả hai vẫn không tìm được tiếng nói chung, đời sống chung không thể hòa hợp được nên đã ly thân từ năm 2010 đến nay. Cả hai không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Mặt khác, bà T xác định tình cảm vợ chồng của bà với ông B không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể tiếp tục quay về đoàn tụ chung sống với ông B được nên yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Lưu Thanh B.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà T và ông B có 02 người con chung là cháu Lưu Hữu P, sinh ngày 14/11/2004 và Lưu Hữu Đ, sinh ngày 14/11/2004. Từ sau khi sống ly thân, hai người con chung vẫn sinh sống cùng với bà T tại thành phố H. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 người con chung. Về cấp dưỡng bà T không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi hai con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lưu Thanh B đã được Tòa án tống đạt triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng, bị đơn không chấp hành pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Đàm Thị T và ông Lưu Thanh B là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Đàm Thị T được ly hôn với ông Lưu Thanh B; Về con chung: Giao 02 con chung tên Lưu Hữu P, sinh ngày 14/11/2004 và Lưu Hữu Đ, sinh ngày 14/11/2004 cho bà Đàm Thị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đàm Thị T về việc không yêu cầu ông Lưu Thanh B phải cấp dưỡng nuôi hai con; Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà án đã tiến hành thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng cho bị đơn theo đúng quy định tại các Điều 175, 177, 179, 196, 208 và Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhưng bị đơn ông Lưu Thanh B vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy, việc bị đơn vắng mặt được xem là từ bỏ quyền trình bày, đưa ra chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và yêu cầu giải quyết về con chung nên quan hệ tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện bị đơn có hộ khẩu thường trú: khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh B, theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 36; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đàm Thị T và ông Lưu Thanh B có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã T, tỉnh B được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41/2004, quyển số 11 ngày 24/5/2004, như vậy hôn nhân của bà T và ông B là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình tố tụng cũng như tại phiên toà, Tòa án không làm việc được với ông B. Bà T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kéo dài. Do vậy, bà T yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với ông B.

Dựa trên cơ sở lời khai của bà T xác định trong cuộc sống hôn nhân của hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hòa hợp, thường xuyên cãi vã, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Ngoài ra, ông B nhiều lần đánh đập và dùng những lời lẽ không hay xúc phạm bà T.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa người vợ và người chồng chỉ tồn tại bền vững dựa trên tình cảm thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình và khi có những bất đồng trong quan hệ vợ chồng thì người vợ và người chồng phải cùng nhau tích cực hàn gắn, xóa bỏ những mâu thuẫn, duy trì tình cảm tốt đẹp của vợ chồng. Nhưng quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông B không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc, bà T xác định vợ chồng đã ly thân từ năm 2010 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, bà T xác định không còn tình cảm với ông B, ông B không tham gia tố tụng, từ bỏ quyền chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông B đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đàm Thị T. Về con chung: Quá trình chung sống bà T và ông B có 02 người con chung là cháu Lưu Hữu P, sinh ngày 14/11/2004 và Lưu Hữu Đ, sinh ngày 14/11/2004. Bà T yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi hai con. Xét thấy hiện nay hai cháu đang sống cùng với bà T tại thành phố H, được bà T chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ngoài ra, hai cháu Lưu Hữu P, Lưu Hữu Đ đều có nguyện vọng muốn được sống với mẹ nên Hội đồng xét xử giao hai con chung cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng. Bà T không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi hai con nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi hai con.

Về tài sản chung, quyền và nghĩa vụ về tài sản: Bà Đàm Thị T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Đàm Thị T phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên; Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

 - Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, 56, 58, 81, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đàm Thị T đối với bị đơn ông Lưu Thanh B về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đàm Thị T được ly hôn với ông Lưu Thanh B.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Lưu Hữu P, sinh ngày 14/11/2004 và Lưu Hữu Đ, sinh ngày 14/11/2004 cho bà Đàm Thị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đàm Thị T về việc không yêu cầu ông Lưu Thanh B phải cấp dưỡng nuôi hai con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Đàm Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0035820 ngày 07/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 102/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:102/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về