Bản án 10/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 10/2021/HS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2021/HS-ST ngày 12 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Vân N, sinh ngày: 10/10/1977 tại Quảng Bình; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 1 LĐ, xã L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 05/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1945 và bà Lê Thị Như X, sinh năm: 1949; gia đình có 06 chị em, N là con thứ 4 trong gia đình; có vợ: Trần Thị Dương Q, sinh năm: 1981; con: Có 04 người con, lớn sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2014; nhân thân: Sinh ra và lớn lên được gia đình, nuôi dưỡng ăn học đến lớp 05/12 thì nghỉ học. Sau đó lập gia đình, lao động tự do cho đến ngày phạm tội; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/12/2020 đến ngày 31/12/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú và quyết định tạm hoãn xuất cảnh cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm: 1985; địa chỉ: Thôn 2 LĐ, xã L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt

2. Anh Hoàng Công T1, sinh năm: 1967; địa chỉ: Thôn 2 LĐ, xã L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 22 giờ 15 phút cùng ngày 28/12/2020, Tổ công tác Công an thành phố H phối hợp với Công an xã L, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Vân N đang điều khiển xe mô tô BKS 73K6-2025 (xe của anh Hoàng Công Tiến) trên đường liên thôn giao nhau với đường YL thuộc thôn 2 LĐ, xã L chở theo 01 thùng carton bên trong chứa 18 hộp pháo (mỗi khối hình hộp có kích thước 14,5 x 14,5 x 12cm), vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, trên hộp in hình pháo hoa và in chữ nước ngoài nhãn hiệu “Dm”. Tổng khối lượng là 21,3 kg.

Nguồn gốc số pháo trên Nguyễn Vân N khai nhặt được ở trước nhà của mình và cất giấu từ tháng 02/2020 mục đích sử dụng trong dịp lễ, tết. Tối 28/12/2020 N chở số pháo trên bán cho anh Nguyễn Xuân H (nhưng không có căn cứ để chứng minh) chưa kịp giao pháo cho anh H thì bị bắt giữ.

Tại Kết luận giám định số 46/GĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 18 khối hình hộp kích thước (14,5 x 14,5 x 12) cm, vỏ giấy nhiều màu sắc, in hình pháo hoa và in chữ nước ngoài nhãn hiệu “Dm” là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ) có tổng khối lượng 21,3 kg (hoàn trả sau giám định 16 hộp khối lượng 18,9 kg).

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ từ Nguyễn Vân N 18 hộp pháo có tổng khối lượng 21,3 kg, 01 xe mô tô HONDA Dream II, BKS 73K6-2025 và 01 điện thoại Intel màu đen có gắn sim 094859617; thu giữ và trả lại cho anh Nguyễn Xuân H 01 điện thoại SAMSUNG A20 màu đen có gắn sim 0948306448.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 06/QĐ-VKSĐH-KT ngày 12 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã truy tố bị cáo Nguyễn Vân N về tội “Tàng trữ hàng cấm” quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã phát biểu lời luận tội, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo Nguyễn Vân N đã thực hiện. Giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xét xử bị cáo đúng như Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn; Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Vân N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là ông Nguyễn Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng Ba, mẹ là bà Lê Thị Như X được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến Hạng Nhì nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đề nghị: Tuyên bị cáo Nguyễn Vân N phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 191; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử bị cáo Nguyễn Vân N từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 (Hai mươi bốn) đến 30 (Ba mươi) tháng.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Vân N vì bị cáo hiện nay không có thu nhập, không có công việc ổn định.

* Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số pháo nổ đã thu giữ; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu đen cho bị cáo Nguyễn Vân N; trả lại 01 xe mô tô HONDA Dream II BKS 73K6-2025 cho anh Hoàng Công T1.

* Về án phí: Bị cáo Nguyễn Vân N phải chịu theo quy định của pháp luật. Quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vân N hoàn toàn khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Quyết định truy tố, không tranh luận với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Vân N khai nhận hành vi phạm tội như nội dung quyết định truy tố mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Trong tháng 02/2020 Nguyễn Vân N nhặt được 18 hộp pháo nổ ở trước nhà của mình, sau đó mang vào nhà cất giấu mục đích để đốt trong dịp lễ, tết. Khoảng 22h15’ ngày 28/12/2020, Nguyễn Vân N điều khiển xe mô tô BKS 73K6-2025 (xe của anh Hoàng Công T) trên đường liên thôn giao nhau với đường YL thuộc thôn 2 LĐ, xã L chở theo 01 thùng carton bên trong chứa 18 hộp pháo, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, trên hộp in hình pháo hoa và in chữ nước ngoài nhãn hiệu “Dm” có tổng khối lượng 21,3kg thì bị lực lượng Công an bắt giữ. Tại Kết luận giám định số 46/GĐ-PC09 ngày 31/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 18 khối hình hộp kích thước (14,5 x 14,5 x 12) cm, vỏ giấy nhiều màu sắc, in hình pháo hoa và in chữ nước ngoài nhãn hiệu “Dm” là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi đốt có gây tiếng nổ) có tổng khối lượng 21,3 kg (hoàn trả sau giám định 16 hộp khối lượng 18,9 kg).

Hành vi của bị cáo Nguyễn Vân N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 đúng như Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Hới đã truy tố.

[3] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Vân N là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Gây mất trật tự an ninh chính trị ở địa phương. Thời gian qua tình hình buôn bán, tàng trữ các loại pháo xảy ra nhiều trên địa bàn thành phố, tác hại và hậu quả nặng nề của việc đốt pháo nổ đã được thể hiện bằng việc thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người. Các cơ quan chức năng đã ra sức tuyên truyền, giáo dục nhằm ngăn chặn loại tội phạm này. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hành vi dân sự, nhận thức được việc tàng trữ pháo nổ là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích cá nhân, xem việc đốt pháo việc bình thường, cho vui, cũng như ý thức coi thường pháp luật mà vẫn cố ý thực hiện, nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên, tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng. Xét bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, không cần thiết phải buộc bị cáo phải cách ly xã hội mà có thể áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, đồng thời còn thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Vân N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Vân N phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bố bị cáo là ông Nguyễn Văn T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng Ba, mẹ là bà Lê Thị Như X được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến Hạng Nhì nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, bị cáo Nguyễn Vân N còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 191 của Bộ luật hình sự 2015. Xét thấy, bị cáo không có công việc, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

- 01 (một) thùng carton, bên trong chứa 16 (Mười sáu) hộp pháo, vỏ hộp bằng giấy nhiều màu sắc, trên mỗi khối hộp có hình ảnh pháo hoa và chữ nước ngoài, ghi dòng chữ “MADE IN CHINA”, nhãn hiệu “Dm”, mã ký hiệu “A8503 (A0398)” (đã niêm phong, trên thùng carton có chữ ký niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình vào ngày 31/12/2020). Đây là hàng hóa Nhà nước cấm buôn bán nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu ITEL màu đen; số IMEI 1: 352019113932507; số IMEI 2: 352019113932515, có gắn số thuê bao: 0949859617, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng (tạm giữ của Nguyễn Vân Nam vào ngày 29/12/2020, theo biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu). Đây là điện thoại bị cáo dùng để điện thoại cho anh Hưng, tuy nhiên quá trình điều tra các đối tượng chỉ điện thoại để rủ nhau đi uống rượu, không liên quan đến vụ án. Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại điện thoại nói trên cho bị cáo Nguyễn Vân N.

- Đối với 01 (một) xe mô tô HONDA Dream II, màu nâu, BKS 73K6-2025, số khung: RLHHA08063Y505471, số máy: HA08E0505460, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, tạm giữ của Nguyễn Vân N vào ngày 29/12/2020, theo biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu. Quá trình điều tra, xác minh đây là tài sản của anh Hoàng Công T1 làm chủ sở hữu, do bị cáo N không có xe máy để đi lại nên đã mượn xe của anh T1 và thực hiện hành vi phạm tội của mình, anh T1 không hay biết. Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại xe mô tô nói trên cho anh Hoàng Công T1.

[8]. Quá trình điều tra anh Nguyễn Xuân H không thừa nhận việc mua pháo nên không có căn cứ để xử lý. Anh Hoàng Công T1 cho N mượn xe mô tô để làm phương tiện đi lại, nhưng không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên không bị xử lý. Tại phiên tòa hôm nay cũng cần giáo dục, răn đe, nhắc nhở anh Nguyễn Xuân H, Hoàng Công T1 để góp phần phòng ngừa, đấu tranh tội phạm chung.

[9] Án phí Hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 BLTTHS năm 2015; Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Bị cáo Nguyễn Vân N phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vân N phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 191, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ các Điều 135, 136, 456, 457, 463, 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Vân N 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/01/2021).

Giao bị cáo cho UBND xã L, thành phố H, tỉnh Quảng Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Xử lý vật chứng: Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tich thu tiêu hủy: 01 (một) thùng carton, bên trong chứa 16 (Mười sáu) hộp pháo, vỏ hộp bằng giấy nhiều màu sắc, trên mỗi khối hộp có hình ảnh pháo hoa và chữ nước ngoài, ghi dòng chữ “MADE IN CHINA”, nhãn hiệu “Dm”, mã ký hiệu “A8503 (A0398)” (đã niêm phong, trên thùng carton có chữ ký niêm phong và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình vào ngày 31/12/2020).

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Vân N 01 (một) điện thoại di động hiệu ITEL màu đen; số IMEI 1: 352019113932507; số IMEI 2: 352019113932515, có gắn số thuê bao: 0949859617, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng (tạm giữ của Nguyễn Vân Nam vào ngày 29/12/2020, theo biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu).

- Trả lại cho anh Hoàng Công T1 01 (một) xe mô tô HONDA Dream II, màu nâu, BKS 73K6-2025, số khung: RLHHA08063Y505471, số máy: HA08E0505460, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng, tạm giữ của Nguyễn Vân N vào ngày 29/12/2020, theo biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu.

(Vật chứng nêu trên hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/01/2021, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Hới và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới).

4. Buộc bị cáo Nguyễn Vân N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (26/01/2021). Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HS-ST ngày 26/01/2021 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:10/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về