Bản án 10/2021/HS-PT ngày 01/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 10/2021/HS-PT NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 184/2020/TLPT- HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo Huỳnh Thi N, Lê S (Điền) do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Huỳnh Thị N, sinh năm: 1996; nơi cư trú: ấp Bà Nhì, xã Đ, huyện D, tỉnh Trà Vinh; nơi cư trú hiện tại: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: nội trợ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn N và bà Nguyễn Thị L; tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê S, sinh năm: 1981; tên gọi khác: Đ Nơi cư trú: ấp Tích Phú, xã Tích Thiện, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: mua bán; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn A và bà Trần Thị B; có vợ là Trần Thị Bích N và 01 con; tiền án: không.

Tiền sự: ngày 11/7/2019 bị Công an xã Vĩnh Xuân xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “đánh bạc”, nộp phạt xong ngày 16/7/2020.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra bị cáo Lê Văn T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn N, Lê Văn N, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn N, Lê Văn A, Trần Thị C, Lâm Thị U, Lê Minh X không có kháng cáo hoặc không có liên quan đến kháng cáo, tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, vào lúc 13 giờ 55 phút ngày 19/6/2020 Công an xã T tiến hành kiểm tra quán nước giải khát của bà Trần Thị C, thuộc ấp T, xã H, huyện T phát hiện Lê S đang bán số lô, số đề cho bà Trần Thị Cvà Lê Văn T với tổng số tiền 455.000 đồng trong đó bà C mua với số tiền 325.000đ, T mua với số tiền 130.000đ. Qua tiến hành kiểm tra Công an lập biên bản thu giữ:

- 01 tờ giấy loại giấy lịch có ghi các con số lô, số đề.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen - 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng bạc, màn hình màu đen.

- 01 cây viết pic mực màu xanh.

- 01 xe môt tô biển số 64F1-036.92 (đã trả cho bị cáo S ngày 24/6/2020).

- Tiền việt nam 14.800.000 đồng.

Tiến hành kiểm tra điện thoại hiệu Oppo của Lê S phát hiện trong thư mục ảnh có 13 hình ảnh thể hiện nhiều con số lô, số đề do bị cáo S ghi đã được bán cho nhiều người từ ngày 16 đến ngày 18/6/2020 với hình thức sau khi tổng hợp các số lô, số đề lại vào giấy (phơi tổng), S chụp hình bằng điện thoại di động có số thuê bao 0399.526.739 và gửi cho thầu đề là Huỳnh Thị N nhằm mục đích hưởng lợi (tiền hoa hồng); tỷ lệ thắng thua là 1/70, bao lô có 18 lô, tiền hoa hồng được tính như sau: S ghi bán 1.300.000 đồng (tức 100 lô đề) được hưởng 40.000 đồng, sau khi có kết quả xổ số ngày hôm sau nhận tiền.

Qua tiến hành làm việc bị cáo S khai nhận:

Ngày 16/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho người mua theo kế quả xổ số miền nam các tỉnh An Giang, Bình Thuận, Tây Ninh và kết quả xổ số miền bắc là Thành phố Hà Nội, sau đó bị cáo S chụp hình dùng tài khoản zalo “Lê S” gửi qua tài khoản zalo “bánh bao” của bị cáo N để hưởng hoa hồng 200.000đ, như sau:

- Nguyễn Hữu T mua số đề số tiền 130.000đ.

- Nguyễn Văn L mua với số tiền 130.000đ

- Nguyễn Văn N mua với số tiền 195.000đ.

- Lê Văn T mua với số tiền 2.730.000đ, trúng 11.600.000 đồng.

- Lê Minh X mua với số tiền 390.000đ, trúng 700.000đ.

- Lê Văn N mua với số tiền 455.000 đồng.

- Nguyễn Văn P mua với số tiền 195.000đ

- Nguyễn Văn N mua với số tiền 325.000đ

- Lê Văn A mua với số tiền 325.000đ

- K, L (không rõ họ tên địa chỉ cụ thể) bị cáo S bán qua điện thoại số tiền 325.000đ, Luận trúng 700.000đ.

- Bị cáo S tự mua với số tiền 650.000đ, trúng 1.750.000đ Tổng số tiền đánh bạc ngày 16/6/2020 là 20.600.000đ (số tiền của người mua là 5.850.000đ, số tiền trúng là 14.750.000đ).

- Đối với việc bán số lô, số đề ngày 16/6/2020 bị cáo N không thừa nhận.

Ngày 17/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho người mua theo kết quả xổ số miền nam các tỉnh Đồng Nai, Sóc Trăng và Thành phố Cần Thơ, sau đó bị cáo S chụp hình dùng tài khoản zalo “Lê S” gửi qua tài khoản zalo “bánh bao” của bị cáo N để hưởng hoa hồng 150.000đ, như sau:

- Nguyễn Hữu T mua với số tiền 130.000đ

- Nguyễn Văn L mua với số tiền 390.000đ

- Trần Thị C mua với số tiền 260.000đ

- Nguyễn Văn N mua với số tiền 260.000đ

- Lê Văn T mua với số tiền 650.000đ

- Lê Minh X mua với số tiền 390.000đ

- Nguyễn Văn P mua với số tiền 325.000đ, trúng 700.000đ

- Nguyễn Văn N mua với số tiền 260.000đ

- Lê Văn A mua với số tiền 195.000đ

- Luận (không rõ tên địa chỉ) mua với số tiền 260.000đ, chưa đưa tiền cho bị cáo S.

- Bị cáo S mua 1.170.000đ, trúng 700.000đ Tổng số tiền đánh bạc là 5.690.000đ (số tiền mua 4.290.000đ, số tiền trúng 1.400.000đ). Bị cáo S nhận tiền từ N và giao cho Phước.

- Đối với việc bán số lô, số đề ngày 17/6/2020 bị cáo N thừa nhận có nhận 08 phơi đề từ tài khoản zalo “bánh bao” với tổng số tiền là 4.290.000đ, người mua trúng 1.400.000đ, sau khi trừ tiền người mua, người trúng, tiền hoa hồng cho bị cáo S, N thu lợi được số tiền là 2.740.000đ.

Ngày 18/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho người mua theo kết quả xổ số miền nam các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre và thành phố Vũng Tàu, sau đó bị cáo S chụp hình dùng tài khoản zalo “Lê S” gửi qua tài khoản zalo “bánh bao” của bị cáo N để hưởng hoa hồng 120.000đ, như sau:

- Trần Thị C mua với số tiền 390.000đ, trúng 700.000đ - Lâm Thị U mua với số tiền 260.000đ - Nguyễn Văn N mua với số tiền 260.000đ.

- Nguyễn Hữu T mua với số tiền 130.000đ, trúng 1.050.000đ.

- Nguyễn Văn L mua với số tiền 455.000đ - Lê Văn T mua với số tiền 2.405.000đ, trúng 1.050.000đ.

- Nguyễn Văn P mua với số tiền 390.000đ, trúng 700.000đ.

- Nguyễn Văn N mua với số tiền 260.000đ - Lê Văn A mua với số tiền 130.000đ - Bị cáo S mua 650.000đ.

Tổng số tiền đánh bạc là 8.830.000 đ (số tiền mua 5.330.000đ, số tiền trúng là 3.500.000đ).

Đối với việc mua bán số lô, số đề ngày 18/6/2020 bị cáo N thừa nhận có nhận số đề từ bị cáo S qua tin nhắn zalo có tài khoản “bánh bao” tổng cộng 08 phơi đề với tổng số tiền là 5.330.000đ, người mua trúng 3.500.000đ; nhưng bị cáo S chưa giao tiền cho N nên N chưa giao tiền cho S để trả cho người trúng và tiền hoa hồng.

Nhng người tham gia mua số đề như: Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn N, Lê Văn N, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn N, Lê Văn A, Trần Thị C, Lâm Thị U, Lê Minh X tham gia đánh bạc với số tiền chưa đủ định lượng để cấu thành tội “Đánh bạc” nên Công an huyện T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Ngày 19/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho bà C, T nhưng bị phát hiện và lập biên bản vi phạm, do đó không tra cứu kết quả xổ số để xử lý bà C, bị cáo Thám, bị cáo S.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số: 38/2020/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị N, Lê S, Lê Văn T phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp 30.000.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Buộc bị cáo nộp 20.000.000 đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử phạt bị cáo Lê Văn T 09 tháng cải tạo không giam giữ và buộc bị cáo Thám nộp 10.000.000 đồng vào ngân sách nhà nước; quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06 tháng 11 năm 2020 bị cáo Huỳnh Thị N có đơn kháng cáo với nội dung: yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo.

Ngày 06 tháng 11 năm 2020 bị cáo Lê S có đơn kháng cáo với nội dung: yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo N, S trình bày: xin giảm nhẹ hình phạt và xin giảm mức tiền phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu quan điểm: sau khi phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N mức án 01 (một) năm tù, về tội “Đánh bạc”. Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo nộp 30.000.000 đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo S mức án 09 tháng tù, về tội” Đánh bạc”. Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo nộp 20.000.000đồng. Các bị cáo phải nộp án phí phúc thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo N: xin giảm nhẹ hình phạt và giảm mức nộp phạt. phạt.

Lời nói sau cùng của bị cáo S: xin giảm nhẹ hình phạt và giảm mức nộp

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: đối với bị cáo S đã có hành vi bán số đầu, số đuôi nhiều lần vào các ngày 16/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho nhiều người mua theo kết quả xổ số miền nam các tỉnh An Giang, Bình Thuận, Tây Ninh và kết quả xổ số miền bắc là Thành phố Hà Nội với tổng số tiền 20.600.000đ (số tiền của người mua là 5.850.000đ, số tiền trúng là 14.750.000đ). Ngày 17/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho người mua theo kết quả xổ số miền nam các tỉnh Đồng Nai, Sóc Trăng và Thành phố Cần Thơ với tổng số tiền 5.690.000đ (số tiền mua 4.290.000đ, số tiền trúng 1.400.000đ). Ngày 18/6/2020 bị cáo S ghi bán số đề cho người mua theo kết quả xổ số miền nam các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre và thành phố Vũng Tàu với tổng số tiền là 8.830.000 đ (số tiền mua 5.330.000đ, số tiền trúng là 3.500.000đ). Tổng cộng số tiền bị cáo S tham gia đánh bạc trong 03 ngày là 35.120.000 đồng. Bị cáo S sau khi bán cho người mua đã chuyển qua tài khoản zalo có tên “Bánh bao” cho bị cáo N và bị cáo N thừa nhận có nhận từ S 02 lần vào các ngày 17/6/2020 và ngày 18/6/2020, nên tổng số tiền bị cáo N dùng đánh bạc là 14.520.000 đồng. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử 02 bị cáo S và N về tội “Đánh bạc” là có căn cứ.

[2.1] Xét đơn kháng cáo của bị cáo N xin giảm nhẹ hình phạt hoặc xin hưởng án treo. Đối với yêu cầu xin hưởng án treo là không chấp nhận vì bị cáo N phạm tội 02 lần, nên không đủ điều kiện hưởng án treo. Đối với yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt là có căn cứ, vì số tiền đánh bạc của bị cáo không lớn, ít hơn bị cáo S, số lần tham gia đánh bạc cũng ít hơn bị cáo S, tại cấp phúc thẩm bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng tiền phạt điều này cho thấy bị cáo thật sự ăn năn, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nên cần thiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đối với yêu cầu xin giảm mức tiền đóng phạt là có căn cứ, vì số tiền thu lợi không lớn.

[2.2] Đối với kháng cáo của bị cáoS xin giảm nhẹ hình phạt tù được hưởng án treo là không căn cứ. Bị cáo S có nhân thân xấu, đã bị xử phạt về hành vi đánh bạc nhưng vẫn không từ bỏ, lần phạm tội này bị cáo phạm tội nhiều lần, nên cần thiết phải xử lý nghiêm để răn đe giáo dục bị cáo. Mức án cấp sơ thẩm áp dụng là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ giảm nhẹ cho bị cáo. Mức phạt đối với bị cáo là phù hợp, không có căn cứ giảm cho bị cáo.

[3] Lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát là chưa được chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo S phải chịu án phí phúc thẩm, bị cáo N không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị N.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê S.

Sửa bản án sơ thẩm số 38/2020/HS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê S 09 (chín) tháng tù, về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo nộp 20.000.000 đồng tiền phạt.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo N 06 (sáu) tháng tù, về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo nộp 10.000.000 đồng tiền phạt.

Án phí: căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Điều 23 Nghị Quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Lê S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Huỳnh Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HS-PT ngày 01/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:10/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về