Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thúy V và anh Trần Thái H

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ NGUYỄN THỊ THÚY V VÀ ANH TRẦN THÁI H

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 346/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020, về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXX-ST ngày 08 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 1997 Địa chỉ: Số nhà 81/56 đường H, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Thái H, sinh năm 1990 Địa chỉ: Số nhà 155/12 đường M, tổ 18, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

+ Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/9/2020, các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Thái H kết hôn với nhau vào ngày 01/12/2015, có đăng ký tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không ai bị ép buộc, trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu được 05 tháng. Qúa trình sống chung cho đến nay, vợ chồng sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng nhau, làm ăn để trả nợ cho anh H không có dư, anh H không có công việc ổn định, không lo kinh tế gia đình, có sử dụng ma túy nên thường xuyên cãi nhau, đôi khi đánh nhau. Từ tháng 08/2020 cho đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người ở một nơi nhưng anh H vẫn thường xuyên qua nhà đánh đập, quậy phá, dùng dao uy hiếp chị, cụ thể ngày 03/9/2020 anh H đốt xe máy trước nhà chị và ngày 20/9/2020 anh H qua nhà cãi nhau và đánh chị bầm tím mặt, sưng tay. Tình cảm của chị đối với anh H không còn, hôn nhân không hạnh phúc, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Huy P, sinh ngày 15/9/2018, hiện tại cháu đang ở với chị. Khi ly hôn nguyện vọng của chị xin nuôi con chung, chị đủ điều kiện nuôi con, thu nhập bình quân 7.000.000đ/tháng nên không yêu cầu anh H cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về công nợ: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố B tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau: Thực hiện đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự qui định, Viện kiểm sát không có kiến nghị gì.

Về giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy V về ly hôn với anh Trần Thái H. Về con chung, căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung Trần Huy P, sinh ngày 15/9/2018 cho chị Nguyễn Thị Thúy V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, chị V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét; về án phí: chị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng:

Chị Nguyễn Thị Thúy V và anh Trần Thái H có đăng ký kết hôn tại UBND phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 01/12/2015, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 150, quyển số 01/15, chị V yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh H. Căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định quan hệ tranh chấp về: “Ly hôn”.

Bị đơn anh Trần Thái H ở địa chỉ: Số nhà 155/12 đường M, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng thụ lý, giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Trần Thái H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt và không thuộc trường hợp sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự.

[2] Về nội dung tranh chấp:

+ Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thúy V và anh Trần Thái H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình sống chung theo chị V xác định: vợ chồng sống hạnh phúc được 03 năm. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng nhau, làm ăn để trả nợ cho anh H, anh H không có công việc ổn định, không lo kinh tế gia đình, sử dụng ma túy nên thường xuyên cãi nhau, đôi khi đánh nhau. Từ tháng 08/2020 cho đến nay vợ chồng sống ly thân mỗi người ở một nơi nhưng anh H vẫn thường xuyên qua nhà đánh đập, quậy phá, dùng dao uy hiếp chị V, cụ thể ngày 03/9/2020 anh H đốt xe máy trước nhà chị và ngày 20/9/2020 anh H qua nhà cãi nhau và đánh chị bầm tím mặt, sưng tay.

Tại biên bản xác minh ghi ngày 18/12/2020 đối với ông Bùi Quang K là Tổ Trưởng tổ dân phố 18, phường L, thành phố B, có nội dung: Về mâu thuẫn vợ chồng của anh H, chị V như thế nào địa phương không nắm bắt được do không có ai trình báo. Hiện tại anh H đang cư trú tại địa chỉ: số nhà 155/12 đường M, phường L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

Tại văn bản ghi ngày 24/12/2020 đối với bà Trần Thị D là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị Thúy V có nội dung: Vợ chồng chị V, anh H kết hôn vào năm 2015 có đăng ký kết hôn, hôn nhân tự nguyện, có làm đám cưới theo phong tục, tập quán. Về tình trạng hôn nhân giữa chị V, anh H đã trầm trọng, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không có hạnh phúc, cả hai đã sống ly thân, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Chị V, anh H có 01 con chung là Trần Huy P, sinh ngày 15/9/2018, hiện cháu P ở với chị V tại nhà bà Trần Thị D.

Xét hôn nhân giữa chị V và anh H lâm vào trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, mặc dù vợ chồng chị V, anh Hđã sống ly thân nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn lại gia đình. Vì vậy, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị Nguyễn Thị Thúy V được ly hôn với anh Trần Thái H.

+ Về con chung: Vợ chồng chị V, anh H có 01 con chung là Trần Huy P, sinh ngày 15/9/2018. Quá trình giải quyết vụ án chị V xin nuôi con, cháu P dưới 36 tháng tuổi. Áp dụng Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu P cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với pháp luật và thực tế. Chị V đủ điều kiện nuôi con, thu nhập bình quân 7.000.000đ/tháng nên không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

+ Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[3] Từ những phân tích, căn cứ pháp luật nêu trên, kết luận: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy V về “Ly hôn” đối với bị đơn anh Trần Thái H.

[4] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng và việc giải quyết vụ án là có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí: Chị V phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 144, 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về … án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy V về “Ly hôn” đối với bị đơn anh Trần Thái H.

2. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thúy V và anh Trần Thái H.

3. Về con: Giao con chung có họ và tên là Trần Huy P, sinh ngày 15/9/2018 cho chị Nguyễn Thị Thúy V trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Chị V đủ điều kiện nuôi con nên không yêu cầu anh Trần Thái H cấp dưỡng.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn và thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân gia đình.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thúy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0018557 ngày 24/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng. Chị Nguyễn Thị Thúy V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo:

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Thúy V và anh Trần Thái H

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về