Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 213/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; ĐKHKTT: Tổ dân phố L, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; hiện cư trú tại: Tổ dân phố H, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

Bị đơn: Anh Trần Văn B, sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị với anh Trần Văn B đăng ký kết hôn ngày 10/11/2009 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung cùng gia đình anh B, năm 2011 anh chị ra ở riêng. Quá trình chung sống, năm 2018 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh B không quan tâm đến gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, xô sát, gia đình nhiều lần khuyên giải nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Tháng 10/2020 chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở, từ đó đến nay anh chị sống ly thân, không ai quan tâm hay có trách nhiệm gì với nhau. Chị xác định tình cảm không còn, không thể hàn gắn được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh B.

Về quan hệ giao nuôi con chung: Chị và anh B có 04 con chung là Trần Thị Trà M, sinh ngày 04/01/2011, Trần Thị Khánh L, sinh ngày 15/02/2013, Trần Thị Bích Ng, sinh ngày 13/12/2015 và Trần Minh Q, sinh ngày 14/12/2018, hiện đang ở cùng chị. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị tiếp tục nuôi dưỡng 04 con chung, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố Tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, cho chị H được ly hôn anh Trần Văn B; Giao cho chị H tiếp tục nuôi 04 con chung là Trần Thị Trà M, Trần Thị Khánh L, Trần Thị Bích Ng và Trần Minh Q; Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con; Chị H phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn B; anh B có nơi cư trú tại huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Do vậy, xác định đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với anh Trần Văn B nhưng anh B vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Trần Văn B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, anh chị sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay, không ai quan tâm hay có trách nhiệm gì đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhiều lần, mặc dù anh B có mặt tại địa phương, biết việc chị H có đơn xin ly hôn nhưng không hợp tác, không đến Tòa án để làm việc. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của chị H và anh B đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị H ly hôn anh B là phù hợp.

[3]. Về quan hệ giao nuôi con chung: Chị H xác định chị và anh B có 04 con chung là Trần Thị Trà M, Trần Thị Khánh L, Trần Thị Ngọc B và Trần Minh Q. Ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi 04 con chung, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy: Căn cứ lời khai của chị H cũng như quá trình xác minh tại địa phương, thể hiện: Anh B không có nghề nghiệp ổn định, là lao động tự do nhưng không chịu khó làm ăn và không có thu nhập ổn định. Nguyện vọng nuôi con của chị H là hoàn toàn tự nguyện, chị H có thu nhập, đủ điều kiện để nuôi 04 con chung. Vì vậy, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cháu đồng thời các cháu có điều kiện phát triển tốt nhất về mọi mặt, thấy cần giao cho chị H tiếp tục nuôi 04 con chung là có căn cứ, phù hợp pháp luật và nguyện vọng của các cháu.

[4]. Về quan hệ tài sản: Chị H không yêu cầu giải quyết, đồng thời quá trình giải quyết vụ án anh B vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này mà sẽ xem xét giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu của đương sự.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng dân sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, xử:

1. Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Trần Văn B.

2. Giao cho chị Nguyễn Thị H tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Trần Thị Trà M, sinh ngày 04/01/2011, Trần Thị Khánh L, sinh ngày 15/02/2013, Trần Thị Bích Ng, sinh ngày 13/12/2015 và Trần Minh Q, sinh ngày 14/12/2018, anh Trần Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con; Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung.

Các đương sự có quyền yêu cầu về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và yêu cầu về cấp dưỡng.

3. Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Biên lai thu số: AA/2017/0008163, ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đảo.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về