Bản án 10/2020/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 01 năm 2021 tại: Hội trường xét xử củaTòa án nhân dân huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An. Tòa án đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 149/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

- Phan Văn V , tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh ngày 05 tháng 6 năm 1984; sinh, trú quán : Xóm Yên Phú, xã V Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Văn L ( chết); Con bà: Nguyễn Thị Ph; vợ: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/9/2020 sau đó bị tạm giam cho đến nay.

- Nguyễn Phúc Th , tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh ngày 20 tháng 8 năm 1985; sinh, trú quán : Xóm 7, xã V Th , huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Phúc T; Con bà: V Thị L; vợ: Nguyễn Thị L; con: có 04 người con: lớn sinh năm 2006. Nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25 /9/2020 sau đó bị tạm giam cho đến nay.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24/9/2020, tổ công tác Công an huyện Yên Thành tuần tra làm nhiệm vụ trên địa bàn xã kiểm tra hành chính thì phát hiện đối tượng Phan Văn V đang điều khiển xe gắn máy trên địa bàn thuộc xóm 11, xã Hợp Thành có biểu hiện nghi vấn, Qua kiểm tra xe gắn máy YAMAHA NOUVO màu nâu váng bạc BKS 37P9 – 8236 của V thì tổ công tác đã thu giữ của Phan Văn V 01( một) bọc giấy potylen màu đen bỏ trong bao thuốc lá hiệu Thăng Long bên trong có chứa 04 ( bốn ) viên nén màu đỏ( nghi là ma túy tổng hợp). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong số vật chứng nói trên cùng với chiếc xe máy, 01 điện thoại Ihphone 6Plus của V , 01 điện thoại STARLIGHT M06 màu đen của Th đưa Phan Văn V về trụ sở công an huyện Yên Thành làm rõ sự việc.

Qua quá trình đấu tranh, điều tra, xác M bị cáo Phan Văn V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tàng trữ ma túy của mình như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 24/9/2020 bị cáo lên cơn thèm ma túy đã gọi điện thoại nhờ Th mua ma túy, Th đồng ý, V xuống nhà Th đưa cho Th 400.000 đồng và Th đi đến địa bàn xóm Tây Lai, xã Phú Thành, huyện Yên Thành, V về nhà còn Th cầm 400.000 đồng đi gặp một người tên là Lưu Xuân M , sinh năm 1991 để mua ma túy, sau khi mua được ma túy Th đưa về làng Phan thuộc xã Hợp Thành và gọi điện cho bị cáo V đến lấy ma túy, V cầm số ma túy về nhà lấy 01( một) viên ra sử dụng, còn lại 04( bốn ) viên bị cáo để vào xe máy đi đến khu vực xóm 11, xã Hợp Thành thì bị bắt quả tang.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác M đối tượng Lưu Xuân M ở địa bàn xóm Tây Lai, xã Phú Thành, huyện Yên Thành. Tuy nhiên Lưu Xuân M không thừa nhận đã bán ma túy cho Th và không có gì chứng M được việc đó. Nên chưa đủ căn cứ cho rằng Lưu Xuân M bán ma túy cho Nguyễn Phúc Th và Phan Văn V .

Tại bản kết luận giám định số 1359/KL-PC09(ĐT -MT) ngày 30/9/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận “ Mẫu vật hình tròn màu đỏ thu giữ của Phan Văn V gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamin). có khối lượng là 0,435 gam”, trong đó đã lấy mẫu đi giám có khối lượng 0,2gam không hoàn lại, hiện số ma túy còn lại có khối lượng 0,235gam.

Cáo trạng số 09/CT-VKS-HS ngày 16/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Phan Văn V và Nguyễn Phúc Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Văn V và Nguyễn Phúc Th đã khai nhận hành vi mà bị cáo thực hiện vào 20 giờ 00 ngày 24/9/2020 giống như nội dung bản cáo trạng và nội dung vụ án như đã nêu trên.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Phan Văn V và Nguyễn Phúc Th không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo V và Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phan Văn V và Nguyễn Phúc Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt: Bị cáo Phan Văn V từ 15 đến 18 tháng tù và Nguyễn Phúc Th từ 12 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày tạm giữ bị cáo 24/9/2020.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn Công an huyện Yên Th , Nghệ An được niêm phong bên trong có chứa viên nén hình tròn màu đỏ được giám định là ma túy.

Đối với chiếc xe máy YAMAHA NOUVO màu nâu váng bạc BKS 37P9 – 8236 mà bị cáo đã sử dụng để cất dấu ma túy khi di chuyển, 01 điện thoại Ihphone 6Plus của V , 01 điện thoại STARLIGHT M06 màu đen của Th xét thấy đã sử dụng để liên lạc mua ma túy đề nghị tịch thu bán hóa giá sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành : Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định tội danh:

Hội đồng xét xử xét thấy: Lời khai tại phiên tòa của bị cáo là phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 07 giờ 30 ngày 03/9/2020, kết luận giám định số 1359/KL-PC09(ĐT -MT) ngày 30/9/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở để kết luận: bị cáo Phan Văn V và Nguyễn Phúc Th đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,435 gam ma túy (Methamphetamin).

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành , tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm:

Đây là vụ án trực tiếp xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội và chế độ quản lý đặc biệt đối với việc tàng trữ chất ma túy. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không chịu cai nghiện và tu dưỡng bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội. Hành vi tàng trữ 0,435 gam ma túy (Methamphetamine)của bị cáo nhằm mục đích sử dụng là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Các bị cáo là người trực tiếp giao dịch với người bán ma túy với mục đích sử dụng vì vậy, cần lên mức hình phạt tương xứng với mức độ, hành vi và vai trò của bị cáo [4]. Đánh giá vai trò, các tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét về vai trò của các bị cáo: Bị cáo Phan Văn V là người khởi xướng là người đưa tiền đi mua ma túy về sử dụng, bị cáo rủ rê bị cáo Nguyễn Phúc Th cùng tham gia tàng trữ ma túy để sử dụng nên phải áp dụng hình phạt nghiêm hơn, , bị cáo Th trực tiếp gặp người bán ma túy cho V , bị cáo chưa được hưởng lợi nên cần lên một mức án thấp hơn đối với bị cáo V .

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo V và Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này khi lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo V và bị cáo Th không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm nào.

Xét thấy, cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục và cải tạo bị cáo. Mức án mà Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và nghiêm M nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản. Gia đình các bị cáo thuộc diện hộ lao động bình thường, thu nhập thấp nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (là hình phạt tiền) đối với các bị cáo.

[6]. Đối với đối tượng Lưu Xuân M , bị cáo Th khai rằng M là người bán ma túy cho Th , sau khi xác M điều tra đấu tranh nhưng không có căn cứ xác định M là người bán ma túy cho các bị cáo. Nên chưa đủ căn cứ cho rằng Lưu Xuân M bán ma túy cho Phan Văn V Hội đồng không xem xét.

[7]. Về vật chứng:

- 01 (một) phong bì công văn Công an huyện Yên Thành, Nghệ An được niêm phong đúng quy định.

Xét thấy: Phong bì niêm phong dán kín bên trong là viên nén hình tròn màu đỏ được giám định là ma túy Methamphetamin. Đây là vật chứng bị Nhà nước cấm tàng trữ trái phép nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Đối với chiếc xe máy YAMAHA NOUVO màu nâu váng bạc BKS 37P9 – 8236 mà bị cáo đã sử dụng để cất dấu ma túy khi di chuyển, 01 điện thoại Ihphone 6Plus của V , 01 điện thoại STARLIGHT M06 màu đen của Th xét thấy đã sử dụng để liên lạc mua ma túy đề nghị tịch thu bán hóa giá sung công quỹ nhà nước là hợp lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Phan Văn V 18 ( mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 24/9/2020.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phúc Th 16(mười sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 24/9/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì có ghi hàng chữ viết: "Gói niêm phong vật chứng thu giữ của Phan Văn V , trú tại xã V Th , huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An bên trong đựng 02 viên nén là ma túy có khối lượng 0,235g cùng vỏ giấy niêm phong (Đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 18/12/2020 giữa Công an huyện Yên Thành và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thành ).

- Tịch thu bán hóa giá sung công quỹ nhà nước chiếc xe máy YAMAHA NOUVO màu nâu váng bạc BKS 37P9 – 8236 , 01 điện thoại Ihphone 6Plus, 01 điện thoại STARLIGHT M06 màu đen ( đã qua sử dụng) 4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Phan Văn V , Nguyễn Phúc Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 10/2020/HS-ST ngày 27/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về