Bản án 10/2020/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 182/2020/TLST- HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 450/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh ngày 09 tháng 5 năm 1988 tại Hải Phòng . Nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện V, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T và bà Đỗ Thị S; có vợ là Nguyễn Thị R và 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Án số 31 ngày 15/10/2007 Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đã được xóa án tích); bị tạm giữ ngày 28/9/2020; tạm giam ngày 01/10/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 28/9/2020, T một mình điều khiển xe máy biển kiểm soát 16L5-9467 đi từ nhà tại thôn Đông Hồng, xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng đến bệnh viện Việt Tiệp để trông bố đang điều trị. Khi đi đến khu vực ngõ 30 Trần Nguyên Hãn, phường Cát Dài, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng thì T nảy sinh ý định mua ma túy heroine về sử dụng. T điều khiển xe đi vào trong ngõ 30 rồi rẽ vào ngách 82, đi được khoảng 20m T gặp một nữ giới bịt khẩu T. Nhìn dáng người nữ giới, T nhận ra người này đã từng bán heroine cho T 01 lần trước đó nhưng không nhớ thời gian. T lấy 200.000 đồng đưa cho người nữ giới và bảo “cho tôi một cái”, ý T là bán cho T 01 gói heroin. Người nữ giới nhận tiền rồi lấy từ trong túi đen cầm tay ra 01 gói nilon màu hồng đưa cho T. T nhận và biết bên trong có heroin rồi điều khiển xe máy đi đến bệnh viện Việt Tiệp. Trên đường đi đến bệnh viện, T cất giấu gói ma túy vừa mua được vào trong túi quần phía trước bên trái đang mặc. Khi đi đến khi vực cổng nhà xe số 02 bệnh viện Việt Tiệp để gửi xe thì bị Tổ công tác Công an phường Cát Dài, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng tiến hành kiểm tra, thì phát hiện trong túi quần phía trước bên trái T đang mặc có 01 gói nilon màu hồng, bên trong có 01 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra lực lượng Công an còn thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng, 01 xe máy BKS: 16L5-9467 và số tiền 350.000 đồng. Tổ công tác đã đưa T cùng tang vật về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 625/KLGĐ-MT ngày 30/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,34 gam, là loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Văn T khai nhận như trên.

Tại Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 15/12/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy và vỏ bao gói còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động và số tiền 350.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy, biển kiểm soát 16L5-9467 T khai mượn của anh Trai là Bùi Quang T để đi ra bệnh viện chăm bố. Quá tình điều tra, xác minh chiếc xe thuộc sở hữu hợp pháp của chị Trần Thị T (là vợ của anh T). Chị T và anh T không biết việc T mượn xe đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho chị T.

Đối với nữ giới bán ma túy cho T, quá trình điều tra không xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, nội dung bản kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa. Thể hiện: Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 28/9/2020, tại khu vực cổng nhà xe số 2 Bệnh viện Việt Tiệp, đường Hai Bà Trưng, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Bùi Văn T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,34 gam Heroine để sử dụng cá nhân và bị bắt quả tang nên đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo cai nghiện ma túy.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án đã được xóa, qua đó cho thấy bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém, không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần phải xử lý nghiêm.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng đã cũ và số tiền 350.000 đồng, xét là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ số tiền 350.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 28 tháng 9 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy cùng vỏ bao bì còn lại sau giám định có số 625/2020/PC09; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng đã cũ; tiếp tục tạm giữ số tiền 350.000 đồng để đảm bảo thi hành án phần án phí, phần còn lại trả cho bị cáo. (Theo biên bản giao, nhận tài sản vật chứng và Biên lai thu tiền số 0004722 ngày 16/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về