Bản án 10/2020/HS-ST ngày 11/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 10/2020/HS-ST NGÀY 11/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 03 năm 2020,Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyên Đăc B , sinh năm 1991, tại thành phố Hồ Chí Minh; HKTT: Tô 07, ấp P, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nơi cư trú: Tổ 01, khu phô A, phương L, thị xã B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Thợ điện cơ; trình độ văn hoá (học vấn) 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyên Thanh H, sinh năm: 1961 (đa chêt) và bà Chu Thi Đ, sinh năm: 1960. Tiền án: không, tiền sự: 01, ngày 16/4/2019 bị Công an huyện Q, Bình Phước xử phạt 2.250.000đ (Hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi Tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuý, nộp phạt ngày 07/6/2019. Ngày 02/11/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã B bắt quả tang, tạm giữ đến ngày 11/11/2019 khởi tố, tạm giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Võ Thanh Nh (Cúi), sinh năm 1988 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 2, ấp P, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

2. Dương Văn H (Bờm), sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 9, ấp H, xã T, huyện Q, Bình Phước.

3. Nguyễn Văn M, sinh năm 1988 (Vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Thôn Phu Mang 3, xã H, huyện M, tỉnh Bình Phước. Chỗ ở hiện nay: Tổ 2, ấp D, phường L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

4. Lê Tuấn Th (Cu), sinh năm 1995 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 5, ấp B, xã L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

5. Nguyễn Tuấn A (Bé), sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 4, khu phố P, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

6. Tô Đình H, sinh năm 2000 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 9, ấp B, xã P, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

7. Dương Văn H, sinh năm 1999 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 8, ấp H, xã T, huyện Q, Bình Phước.

8. Nguyễn Thế P, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 6, khu phố A, phường L, thị xã B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 02/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã B phối hợp với Công an phường L tiến hành kiểm tra căn nhà của chị Huỳnh Thị Hồng Y tại tổ 1, khu phố A, phường L, thị xã B có một nhóm thanh niên gồm: Nguyễn Đắc B, Dương Văn H, Đương Văn H, Nguyễn Văn M, Tô Đình H, Nguyễn Tuấn A, Lê Tuấn Th và Võ Thanh Nh đồng thời phát hiện 01 (một) gói nylon được hàn kín có khóa miết màu đỏ, kích thước (7,4 x 4,2)cm, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể dạng rắn màu trắng để lẫn lộn cùng quần áo chưa giặt trong lồng máy giặt nhãn hiệu “SANYO” ở khu vực bếp. Nguyễn Đắc B thừa nhận gói nylon chứa ma túy đá do B mua về sử dụng và cho những thanh niên trên sử dụng chung sau đó cất giấu thì bị phát hiện nên Cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng (ký hiệu M), thu giữ theo quy định.

Tại Kết luận số 236/2019/GĐ-MT ngày 07/11/2019 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước, kết luận: “Tinh thể màu trắng (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,7502 (không phẩy bảy năm không hai) gam, loại Methamphetamin.

Cáo trạng số: 10/CT-VKSBL ngày 18/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã B truy tố Nguyên Đăc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyên Đăc B 14 đến 20 tháng tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã B, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã B, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến trong vụ án về thời gian, địa điểm và quá trình thực hiện tội phạm, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, vật chứng có trong hồ sơ vụ án đã thu thập được. Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 02/11/2019, tại tổ 01, khu phố A, phường L, thị xã B, tỉnh Bình Phước, Nguyễn Đắc B đang cất giấu trong máy giặt 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng, bị phát hiện. Bảng thừa nhận là ma túy đá mua về để sử dụng. Ma túy thu giữ giám định có khối lượng 0,7502gam (không phẩy bảy năm không hai gam), loại Methamphetamine. Đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là người đủ tuổi chịu trách nhiêm hinh sư , thưc hiên lôi cô y trưc tiêp , xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, cần xử phạt tù có thời hạn để răn đe, giáo dục chung.

[4] Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không co tinh tiêt tăng năng.

[5] Đối với vật chứng của vụ án:

- 01 (một) phong bì chứa chất ma túy được Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước niêm phong có ký hiệu M, khối lượng là 0,5315gam, bên trong có chứa Methamphetamin (hoàn lại sau giám định), là chất cấm lưu hành, tịch thu tiêu hủy.

- 01 nỏ thuỷ tinh va 01 quẹt gaz được dùng để sử dụng ma túy, không con giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.

[6] Về mặt dân sự: Không ai có yêu cầu bồi thường gì, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc ma túy Nguyễn Đắc B khai nhận mua của 01 người thanh niên tên Tâm tại khu vực huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Hiện không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có cơ sở xử lý.

Nguyễn Đắc B cho Dương Văn H, Đương Văn H, Nguyễn Văn M, Tô Đình H, Nguyễn Tuấn A, Lê Tuấn Th và Võ Thanh Nh cùng là người nghiện sử dụng chung ma tuý nhưng không thu lợi nên không xử lý về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý.

Chị Huỳnh Thị Hồng Y có cho Nguyễn Đắc B thuê nhà tại tổ 1, khu phố A, phường L, thị xã B nhưng không biết việc Bảng tàng trữ trái phép ma tuý trong nhà nên không xử lý.

Cơ quan điều tra đã xử lý hành chính đối với Dương Văn H, Đương Văn H, Nguyễn Văn M, Tô Đình H, Nguyễn Tuấn A, Lê Tuấn Th và Võ Thanh Nh về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý là đúng quy định, Hội đồng xét xử không xem xét.

Kiểm sát viên đề nghị hình phạt tù cho bị cáo Nguyên Đăc Bang là chưa phù hợp, nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Lý do năm 2019 bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy, nay bị cáo lại tiếp tục tàng trữ ma túy với khối lượng 0,7502gam (không phẩy bảy năm không hai gam) để sử dụng và còn cho nhiều người cùng sử dụng chung ma túy tại nhà bị cáo thuê.

Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyên Đăc B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyên Đăc B 02 (hai) năm tù, tính từ ngày 02/11/2019

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0002626 ngày 19/02/2020 giữa Công an thị xã B và Chi cục thi hành án dân sự thị xã B.

Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì chứa chất ma túy được Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Phước niêm phong có ký hiệu M, khối lượng là 0,5315gam, bên trong có chứa Methamphetamin (hoàn lại sau giám định)

- 01 nỏ thuỷ tinh va 01 quẹt gaz được dùng để sử dụng ma túy.

Án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-ST ngày 11/03/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về