Bản án 10/2020/HS-PT ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 10/2020/HS-PT NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 719/2019/HSPT-TL ngày 18 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo Phan Việt C do có kháng cáo của bị cáo Phan Việt C đối với bản án hình sự sơ thẩm số 384/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

Phan Việt C; sinh ngày: 20/9/1983, tại Kiên Giang. Thường trú: 412 khu phố Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phan Văn D và bà Nguyễn Thị C1; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: không;

Nhân thân:

- Ngày 20/9/2007 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Kiên Giang xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 20/2007/HSST;

- Ngày 06/9/2012 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 92/2012/HSPT.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/11/2018 - Có mặt. mặt.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Võ Tuấn A là Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh - Có

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 21 giờ 27 phút ngày 14/11/2018, tại trước nhà số 72 đường P, Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, tổ tuần trá thuộc Đội cảnh sát hình sự đặc nhiệm hướng Nam - Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện Đặng Văn S đang điều khiển xe gắn máy biển số 68T1 - 013.18 chở Phan Việt C ngồi sau, có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thu giữ của Phan Việt C 01 túi xách đang đeo trên người, bên trong có:

+ 01 gói ny lon chứa 493 viên nén hình tam giác màu xanh lá có in chữ EA7, kết quả giám định thể hiện là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 195,7253g loại MDMA.

+ 01 gói ny lon chứa 09 viên nén hình tròn màu xanh dương có khắc hình vương miện. Kết quả giám định thể hiện là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,2531g loại Ketamine.

+ 02 gói ny lon chứa 17 viên nén hình tròn màu xanh dương có in chữ LV. Kết quả giám định thể hiện là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,7939g loại MDMA.

+ 02 gói ny lon chứa tinh thể màu trắng. Kết quả giám định thể hiện là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,4061 g loại Ketamine.

+ 01 gói ny lon chứa tinh thể không màu. Kết quả giám định thể hiện là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,8940g loại Ketamine.

Toàn bộ số ma túy thu giữ nêu trên đã được giám định tại bản Kết luận giám định số 01/KLGĐ-H ngày 23/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Bút lục 33).

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Phan Việt C khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, thông qua bạn bè xã hội C được biết ở khu vực Bến xe Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh có các đối tượng bán ma túy nên ngày 14/11/2018 C đón xe từ Kiên Giang lên Bến xe Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy về sử dụng. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày C đến Bến xe Quận 8, thông qua một người chạy xe ôm giới thiệu, C gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch) và thỏa thuận mua 500 viên thuốc lắc với giá 40.000.000 đồng, người đàn ông đồng ý bán. Sau khi giao tiền, C đi theo người đàn ông đến một chỗ vắng gần Bến xe Quận 8. Tại đây người này đưa cho C 01 gói nylon chứa các viên thuốc lắc màu xanh lá có in chữ EA7 (C không kiểm đếm lại nên không rõ số lượng cụ thể là bao nhiêu). Nhận được ma túy C bỏ vào túi xách màu xanh của C rồi gọi điện thoại nhờ Đặng Văn S là bạn xã hội chở ra bến xe trên đường L để đón xe khách về Kiên Giang, trên đường đi thì bị phát hiện bắt quả tang như nêu trên.

Riêng số ma túy còn lại thu giữ của C, C khai cách ngày bị bắt khoảng 02 tuần, C đến Bến xe Quận 8 mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 30 viên thuốc lắc hiệu “LV” với giá 90.000 đồng/viên và 02 hộp 10 Ketamine với giá 7.500.000 đồng/hộp để sử dụng nhưng do ma túy kém chất lượng nên sau khi sử dụng được một ít, số ma túy còn lại ngày 14/11/2018 C đem đến Bến xe Quận 8 tìm người đã bán để đổi lại nhưng không gặp nên lại đem về Kiên Giang.

Đối với các đối tượng bán ma túy cho Phan Việt C, do C khai không rõ nhân thân lai lịch, nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với Đặng Văn S, do không biết và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Phan Việt C, nên Cơ quan điều tra đã giải tỏa theo quy định.

Vật chứng của vụ án:

- 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong, ghi số 01/2019 có chữ ký của Phan Việt C và chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T1, cán bộ điều tra Lê Quang H.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia

- 01 túi xách màu xanh dương

- 04 thẻ ATM mang tên Phan Việt C

- 1.140.000 đồng tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đã nộp vào tài khoản của Cơ quan cảnh sát điều tra, tại kho bạc Nhà nước Quận 10).

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68T1 - 013.18, số khung: C640BY457182, số máy: 5C64-457190. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do bà Nguyễn Thị C1 (mẹ ruột của bị cáo Phan Việt C) đứng tên sở hữu. Bà C1 cho C mượn xe làm phương tiện đi lại tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 384/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt bị cáo Phan Việt C 18 (mười tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 11 năm 2018. Phạt bị cáo Phan Việt C số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 24/10/2019 bị cáo Phan Việt C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phan Việt C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo có hành vi tàng trữ 500 viên thuốc lắc, có giám định. Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có hai bản án hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 với mức án 18 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Bị cáo kháng cáo không có tình tiết mới, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Bị cáo tự bào chữa: Gia đình bị cáo có công với Cách mạng mà tại sao xử bị cáo với mức án 18 năm tù là nặng.

Người bào chữa cho bị cáo C trình bày: Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, luật sư không tranh luận. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo nghiện ma túy, nhận thức pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Bị cáo C trình bày: Thống nhất ý kiến của người bào chữa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Việt C thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo có hành vi cất giữ trái phép 201,5192 gam ma túy ở thể rắn, loại MDMA và 14,5532 gam ma túy ở thể rắn, loại Ketamine vào túi xách của bị cáo, trên đường đi ra bến xe trên đường L để đón xe khách về Kiên Giang thì bị Công an phát hiện bắt giữ.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phan Việt C và đề nghị của luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[3.1] Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Việt C tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3.2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương, mặt khác nó còn là nguyên nhân làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng, là nguồn gốc phát sinh ra các loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ ma túy là một loại tệ nạn xã hội, hành vi tàng trữ ừái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng do muốn có ma túy để thỏa mãn cho nhu cầu bất chính của bản thân, bị cáo vẫn cố ý phạm tội, chứng tỏ ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc nhân thân của bị cáo đã có 02 tiền án đã được xóa, các tình tiết giảm nhẹ đầy đủ cho bị cáo C. Hình phạt áp dụng với bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật.

[3.3] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có cơ sở. Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Do không được chấp nhận kháng cáo, bị cáo C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên về trách nhiệm thi hành án là có thiếu sót, Tòa án cấp phúc thẩm bổ sung cho đầy đủ.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Việt C. Giữ nguyên án sơ thẩm, có bổ sung trách nhiệm thi hành án.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Phan Việt C 18 (mười tám) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 11 năm 2018.

Phạt bị cáo Phan Việt C số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục tạm giam bị cáo theo Quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 384/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bị cáo Phan Việt C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HS-PT ngày 13/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về