Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về xin ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOA LƯ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ XIN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 9 năm 2020. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoa Lư tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 76/2020/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 về việc: “xin ly hôn và tranh chấp nuôi con chung’’. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐST - HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị Hồng L, sinh năm 1999. Trú tại: xóm 6, xã Kh, huyện Y, tỉnh N.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Xuân K, sinh năm 1992. Trú tại: thôn H, xã N, huyện H, tỉnh N.

Có mặt tại phiên toà: Chị L; vắng mặt anh K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Trịnh Thị Hồng L trình bày: Chị và anh Đỗ Xuân K, sinh năm 1992, trú tại: thôn H, xã N, huyện H, tỉnh N, kết hôn với nhau từ tháng 10 năm 2019 có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện H, tỉnh N. Hai bên gia đình chưa tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh K có tính cục súc, vô cớ hành hạ đánh đập chị L, vì vậy vợ chồng chưa sống chung với nhau một ngày nào, hiện tại chị L vẫn đang chung sống cùng với mẹ đẻ ở xóm 6, xã Kh, huyện Y, tỉnh N. Nay chị xét thấy không có tình cảm vợ chồng với anh K nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh K để ổn định cuộc sống sau này. Về con chung trong quá trình thời gian tìm hiểu yêu đương, nên chị L và anh K đã có với nhau một người con chung tên là Đỗ Bảo Gia H, sinh ngày 28/3/2020, hiện nay chị L đang nuôi dưỡng, khi ly hôn chị L đề nghị được trực tiếp nuôi con chung không đề nghị anh K phải đóng góp tiền nuôi con chung cho chị L. Về tài sản vợ chồng chưa sống chung với nhau một ngày nào nên không có tài sản chung.

Ti phiên tòa hôm nay anh K vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoa Lư: Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay những ngưi tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng. Về nội dung: Sau khi xem các tài liệu có tại hồ sơ, nghe chủ tọa phiên tòa công bố tóm tắt nội dung vụ án và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh K, không có tình cảm vợ chồng với nhau, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điu 56 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227; Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị Trịnh Thị Hồng L, về con chung giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con chung Đỗ Gia Bảo H, sinh ngày 28/3/2020 anh K không phải đóng góp tiền nuôi con chung cho chị L, về án phí: Chị L phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn anh Đỗ Xuân K cư trú tại: thôn H, xã N, huyện H, tỉnh N. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị Hồng L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh K vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo quy định.

Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định tại chương X Bộ luật tố tụng dân sự về việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho anh K nhưng anh K không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị L; tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiến cận, công khai chứng cứ ngày 20 tháng 8 năm 2020 và tại phiên tòa hôm nay, anh K đều vắng mặt không có lý do thể hiện anh K đã từ bỏ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình mà Bộ luật tố tụng dân sự quy định cho bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trịnh Thị Hồng L và anh Đỗ Xuân K tự do tìm hiểu và đi đến kết hôn, có đăng ký kết hôn số 41 ngày 04 tháng 10 năm 2019 tại UBND xã N, huyện H, tỉnh N, do vậy quan hệ giữa chị L và anh K là quan hệ vợ chồng được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Nhưng chị L và anh K chưa tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và chưa chung sống với nhau một ngày nào, anh K đã có hành động cục súc đánh đập chị L. Ngày 17/8/2020 a án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân giữa chị Trịnh Thị Hồng L với anh Đỗ Xuân K, bà Trịnh Thị Th (bà ngoại anh K) cho biết anh K sinh ra một thời gian thì bố mất, mẹ đi lấy chồng nên ở với bà ngoại từ nhỏ. Anh K và chị Trịnh Thị Hồng L, sinh năm 1999 trú tại: xóm 6, xã Kh, huyện Y, tỉnh N tìm hiểu yêu đương được khoảng mấy tháng, khi chị L có thai anh K và chị L làm thủ tục đăng ký kết hôn, đợi ngày lành tháng tốt tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, thì anh K và chị L đã xảy ra mâu thuẫn, nên hai bên gia đình không tổ chức đám cưới cho anh K và chị L. Nay chị L xin ly hôn anh K quan điểm của gia đình đề nghị Tòa án căn cứ vào qui định của pháp luật để giải quyết.

Từ những phân tích nêu trên. Hội đồng xét xử nhận thấy đã đủ căn cứ về việc vợ chồng vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Xử cho ly hôn giữa chị Trịnh Thị Hồng L với anh Đỗ Xuân K, về con chung chấp nhận đề nghị của chị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên là Đỗ Bảo Gia H, sinh ngày 28/3/2020, anh K không phải đóng góp tiền nuôi con chung cho chị L là phù hợp.

[3] Về án phí: Chị Trịnh Thị Hồng L phải nộp án phí theo qui định của pháp lut.

Bởi lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 56, 81; 82; 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

X: Cho ly hôn giữa chị Trịnh Thị Hồng L với anh Đỗ Xuân K.

- Về con chung: Giao cho chị Trịnh Thị Hồng L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục con chung tên là Đỗ Bảo Gia H, sinh ngày 28/3/2020 đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh K không phải đóng góp tiền nuôi con chung cho chị L. Chị L không được cản trở quyền thăm non con chung, khi cần các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

- Về án phí: Chị Trịnh Thị Hồng L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ 300.000đ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 01164 ngày 27/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoa Lư.

Tng hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về xin ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoa Lư - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về