Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về không công nhận vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN VỢ CHỒNG

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 72/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020, về việc không công nhận vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2020/QĐXX-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số: 05/TB-TA ngày 06 tháng 4 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm: 1974.

Địa chỉ cư trú: Ấp L, xã K, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm: 1972.

Địa chỉ: Ấp L, xã K, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 02 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Đồi trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T chung sống với nhau vào năm 1992, có tổ chức lễ cưới hôn nhân tự nguyện, nhưng không có đăng ký kết hôn. Chị và anh T chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, gây gỗ nhau nhiều lần. Nguyên nhân là do anh T thường xuyên uống rượu về đánh đập chị, chị có báo chính quyền địa phương, nhưng sau đó anh vẫn không thay đổi.

Chị và anh T sống ly thân từ tháng 12-2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai anh chị cũng không gặp nhau để hòa giải, hàn gắn gia đình. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống với nhau được nữa. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh T là vợ chồng.

- Về con chung: Chị và anh T có hai con chung tên Trần Kim H, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1995 (nữ) và Trần Ân A, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2010 (nam). Hiện tại hai cháu đang sống chung với chị, cháu H đã thành niên, tự lao động sinh sống được nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay ly hôn chị yêu cầu nuôi cháu A, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Chị trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Bị đơn anh Trần Văn T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị P trình bày cơ sở hôn nhân giữa anh và chị Phương như trên là đúng. Trong quá trình chung sống anh và chị P thường xuyên gây gỗ nhau, trong lúc nóng giận anh có đánh chị P, chính quyền địa phương có mời anh làm việc. Từ đó, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Anh và chị P sống ly thân từ tháng 12-2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân hai anh chị cũng không hòa giải, hàn gắn gia đình. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh yêu cầu Tòa án không công nhận anh và chị P là vợ chồng.

- Về con chung: Anh và chị P có hai con chung tên Trần Kim H, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1995 (nữ) và Trần Ân A, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2010 (nam).

Hiện tại hai cháu đang sống chung với chị P, cháu H đã thành niên, tự lao động sinh sống được nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay ly hôn anh đồng ý giao cháu A cho chị P nuôi, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tham gia phiên Tòa trình bày:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử: Thẩm phán, thư ký thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền, việc thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị P và bị đơn anh Trần Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị P, anh T là đúng theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu chưa thấy vấn đề vi phạm tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử theo quy định.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 9, Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị P, không công nhận chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T là vợ chồng. Về con chung: Chị P, anh T có 02 con chung tên Trần Kim H, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1995 (nữ) và Trần Ân A, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2010 (nam). Hiện tại hai cháu đang sống chung với chị P. Chị P, anh T thống nhất do cháu H đã thành niên, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng. Đối với cháu A anh chị thống nhất giao cho chị P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P không yêu cầu. Về tài sản chung: Chị P, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị P, anh T trình bày không có, nên không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị P phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị P, anh T theo quy định tại Khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T chung sống với nhau từ năm 1992, nhưng không có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của hai anh chị không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình (năm 2014) thì không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh T là vợ chồng.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T có 02 con chung tên Trần Kim H, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1995 (nữ) và Trần Ân A, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2010 (nam). Hiện tại hai cháu đang sống chung với chị P. Chị P, anh T thống nhất do cháu H đã thành niên, tự lao động sinh sống được nên không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng. Đối với cháu A anh chị thống nhất giao cho chị P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P không yêu cầu [4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T trình bày không có nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải chịu tiền án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 9, Điều 14, Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Ân A, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2010 (nam) cho chị Nguyễn Thị P tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị P không yêu cầu. Riêng em Trần Kim H, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1995 (nữ) đã thành niên, tự lao động sinh sống được nên anh chị thống nhất không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T thống nhất không yêu cầu giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị P và anh Trần Văn T trình bày không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị P phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị P đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu số 0014148 ngày 26 tháng 02 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Chị P đã nộp xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

Anh Trần Văn T không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị P, anh T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/HNGĐ-ST ngày 29/04/2020 về không công nhận vợ chồng

Số hiệu:10/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về