TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 10/2020/HNGĐ-PT NGÀY 17/11/2020 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình phúc thẩm thụ lý số: 10/2020/TLPT-DS ngày 06 tháng 10 năm 2020 về: “Tranh chấp con chung khi ly hôn”, Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 12/2020/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 11/2020/QĐ-PT ngày 02 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị L; địa chỉ: Thôn 1, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
Bị đơn : Ông Trần Xuân T; địa chỉ: Thôn 1, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
Người kháng cáo: Bị đơn ông Trần Xuân T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày: Chị và anh Trần Xuân T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Đắk Nông vào năm 2008. Trong quá trình chung sống cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T cố chấp, hay ghen tuông, không lo làm ăn nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh T nhiều lần đánh đập chị, trong cuộc sống vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Hiện tại chị cảm thấy không thể hàn gắn cuộc sống hôn nhân nên chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh. Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là cháu Trần Anh V, sinh ngày 01-01-2011, chị có nguyện vọng nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Qúa trình giải quyết vụ án anh Trần Xuân T trình bày: Anh thừa nhận việc đăng ký kết hôn và chung sống như chị L trình bày. Trong thời gian chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vấn đề về kinh tế nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh thừa nhận có đánh đập chị L. Hiện nay anh cảm thấy không thể hàn gắn mối quan hệ hôn nhân nên anh đồng ý ly hôn với chị L. Về con chung: Anh và chị L có 01 con chung như chị L trình bày, khi ly hôn anh có nguyện vong nuôi con chung và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 12/2020/HNGĐ-ST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông đã tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị L. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L được ly hôn với anh Trần Xuân T. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Anh V (sinh ngày 01-01-2011) cho chị Lê Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24/8/2020, bị đơn anh Trần Xuân T kháng cáo về phần con chung, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giao cho anh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Anh V đến tuổi trưởng thành.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn anh Trần Xuân T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho anh được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Anh V đến tuổi trưởng thành Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông:
Về tố tụng: Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các Thẩm phán tham gia, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của anh Trần Xuân T, giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 12/2020/HNGĐ-ST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn nộp trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định.
[2]. Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn anh Trần Xuân T, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử XÉT THẤY
Anh Trần Xuân T và chị Lê Thị L có 01 con chung là cháu Trần Anh V, sinh ngày 01-01-2011.
Anh T làm nông, mức thu nhập hàng tháng khoảng 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Chị L có mở một quán nước bán cà phê, nước giải khát và đồ ăn vặt có mức thu nhập hàng tháng khoảng 10.000.000 đồng. Anh T và chị L đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Trần Anh V. Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai ngày 19/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong ghi nhận nguyện vọng của cháu V là được ở với chị L nên việc Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu Trần Anh V cho chị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Tại giai đoạn phúc thẩm, anh T không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho nội dung kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của anh Trần Xuân T.
[3]. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên anh Trần Xuân T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Trần Xuân T, giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 12/2020/HNGĐ-ST ngày 11/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông về phần con chung.
Giao cháu Trần Anh V (sinh ngày 01-01-2011) cho chị Lê Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở; trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
2. Về án phí: Anh Trần Xuân T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002667 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Đắk Nông.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án 10/2020/HNGĐ-PT ngày 17/11/2020 về tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 10/2020/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về