Bản án 10/2020/DS-PT ngày 07/12/2020 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KON TUM 

BẢN ÁN 10/2020/DS-PT NGÀY 07/12/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT; HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong ngày 07 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2020/TLPT-DS ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền trên đất, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 22/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 17 /2020/QĐPT-DS ngày 12 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B, có mặt; địa chỉ: 48 Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

-Bị đơn: Ông Đặng Thanh C; địa chỉ: 50 Đinh Tiên Hoàng, tổ 1, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Ủy quyền cho anh Nguyễn Đức Vinh và chị Võ Thị Hồng Vân, làm việc tại Văn phòng luật sư Sài Gòn An Nghiệp; địa chỉ số 52 đường Bà Triệu, thành phố KonTum, tỉnh KonTum, có mặt.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1. Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Xuân Tâm, chức vụ: Giám đốc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố Kon Tum, xin vắng mặt.

2. Ông Đinh Văn T (vắng mặt) và bà Phạm Thị M (có mặt); Địa chỉ: Số 28/2 Lý Tự Trọng, phường N , thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Người kháng cáo: Bị đơn Ông Đặng Thanh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Năm 1986, Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi, thị xã Kon Tum (nay là thành phố Kon Tum), cấp đất giãn dân làm kinh tế vườn cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B (Nay thuộc địa chỉ: Số 48 Đinh Tiên Hoàng, tổ 1, phường T, thành phố Kon Tum). Ông bà đã sinh sống, làm ăn, ở ổn định từ năm 1986 đến nay tại thửa đất này, không tranh chấp đất với ai. Vào năm 2003, ông bà được Ủy ban nhân dân thị xã Kon Tum (nay là thành phố Kon Tum), cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00535/ QSDĐ đối với thửa đất số 28, tờ bản đồ số 43, diện tích 1.432m2. Đến năm 2019, do Giấy chứng nhận đã cũ, ông bà làm thủ tục đề nghị cấp lại và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 854000, thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.514m2.

Trên diện tích đất 1.514m2, ông bà có xây 02 căn nhà. Căn nhà thứ 01 là số 48 Đinh Tiên Hoàng, xây dựng năm 2002. Căn nhà thứ 02 là số 50 Đinh Tiên Hoàng,. xây dựng vào đầu tháng 7/2014, đến tháng 9/2014 hoàn thành, chi phí xây dựng số tiền 230.000.000 đồng, thuê thầu xây dựng là và đã được Ủy ban nhân dân thành phố Kon Tum cấp Giấy phép xây dựng. Mục đích xây căn nhà này để cho con trai trưởng ở và thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên, cuối tháng 10/2014, ông C ly hôn vợ, không có chỗ ở nên xin ông bà cho ở nhờ, vì là chỗ anh em ruột nên đồng ý cho ông C về ở đến nay.

Ngày 24/7/2019, ông bà chuyển nhượng cho Ông Đinh Văn T và bà Phạm Thị M một phần diện tích đất 227m2, với giá 840.000.000 đồng, đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 26 tháng 3 năm 2020. Trường hợp Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông bà đồng ý trả lại cho ông T và bà M số tiền 840.000.000 đồng.

Vì vậy, ông bà khởi kiện và yêu cầu Tòa án buộc Ông Đặng Thanh C trả lại căn nhà cấp bốn, trên diện tích đất 102m2, thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, địa chỉ số 50 đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Không đồng ý yêu cầu phản tố của Ông Đặng Thanh C.

Bị đơn ông C trình bày: Nguồn gốc đất trên là do ông khai hoang từ năm 1975 đến năm 1985, diện tích khoảng 2.700m2, tại đường Đinh Tiên Hoàng, tổ 1, phường T, thành phố Kon Tum. Năm 1985, Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi, có kế hoạch giãn dân nên thu hồi lại toàn bộ đất, đến cuối năm 1985, cấp lại cho ông 1.500m2 đất, nay là đường Đinh Tiên Hoàng. Đến năm 1989, Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B kết hôn, ông cho ra ở riêng tại lô đất đường Đinh Tiên Hoàng, từ đó đến nay ông vẫn quản lý diện tích đất này. Đến năm 2010, ông mới biết việc ông A, bà B được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vợ cũ Huỳnh Thị Tuyết E nói. Lúc đó, ông không khởi kiện hay có ý kiến gì vì nghĩ bà B là em gái.

Sau khi ly hôn, tháng 7/2014, ông xây dựng căn nhà số 50 đường Đinh Tiên Hoàng để sinh sống, với số tiền 250.000.000 đồng, có được từ việc phân chia tài sản sau ly hôn được thanh toán 400.000.000 đồng. Bà B giới thiệu ông Tình để xây dựng nhà, sau khi xây xong ông về sinh sống từ đó đến nay. Quá trình giải quyết vụ án ông C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh căn nhà số 50 Đinh Tiên Hoàng đang tranh chấp thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình.

Vì vậy, ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thửa đất số 28, tờ bản đồ số 43, diện tích 1.432m2, cấp ngày 11/9/2003 và cấp lại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.514m2 , số CQ 854000 ngày 22/7/2019, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum, cấp cho ông A và bà B , địa chỉ đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum. Công nhận quyền sở hữu căn nhà số 50, diện tích xây dựng 57,3m2 trên thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.500m2 đất, tại đường Đinh Tiên Hoàng cho ông.

Ngoài ra, nguyện vọng của ông chia thửa đất nêu trên làm 03 phần: Căn nhà số 48 Đinh Tiên Hoàng cho ông A, bà B ; căn nhà số 50 Đinh Tiên Hoàng cho ông; Phần đất còn lại cho con sử dụng. Đối với diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Thuận, bà M, ông không đồng ý vì không thông qua ý kiến của ông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày.

1. Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum.

Năm 2003, ông A và B được cấp diện tích 1.432m2 theo chủ trương giãn dân, tách hộ lập vườn năm 1986 là đúng quy định pháp luật. Năm 2019, Ông Trần Văn A xin cấp đổi lại Giấy chứng nhận theo hiện trạng sử dụng, diện tích thực tế sử dụng lớn hơn diện tích được cấp năm 2003. Lý do, chênh lệch tăng là năm 2003 đo đạc bằng thủ công không chính xác, qua đo đạc lại và kiểm tra hồ sơ cấp đổi thể hiện đúng hiện trạng, không tranh chấp, Ủy ban nhân dân phường T và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố, đã thực hiện đầy đủ các thủ tục đúng quy định. Vì vậy, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông A và bà B , thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.514m2 ngày 22/7/2019 là đúng quy định tại Điều 76 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. Đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.

2. Ông Đinh Văn T và bà Phạm Thị M đồng ý lời trình bày của nguyên đơn về việc chuyển nhượng đất. Trường hợp Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thì yêu cầu ông A, bà B bồi thường, trả lại số tiền 840.000.000 đồng.

Những người làm chứng trình bày:

1. Bà Huỳnh Thị Tuyết Mai đã ly hôn Ông Đặng Thanh C năm 2014. Bà M đồng ý với lời khai của nguyên đơn về nguồn gốc đất đang tranh chấp, diện tích đất tại đường Đinh Tiên Hoàng là của ông A và bà B , không phải là tài sản của hộ gia đình ông và bà như ông C trình bày. Bà M đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Quang D trình bày:

Ông Nguyễn Quang D không có quan hệ thân thích gì với các đương sự. Năm 2014 ông A thuê ông xây dựng căn nhà tại đường Đinh Tiên Hoàng. Hai bên không ký hợp đồng, chỉ thỏa thuận miệng, thời gian xây khoảng 02-03 tháng là xong và bàn giao, ông A và bà B trực tiếp thanh toán tiền công cho ông. Đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt.

Với nội dung trên tại bản án dân sự sơ thẩm số 22/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum đã quyết định như sau:

Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, Điều 91, khoản 1 Điều 228 và khoản 2 Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện, đề ngày 10/6/2020 và đơn khởi kiện bổ sung, đề ngày 17/8/2020 về việc tranh chấp “Đòi lại, công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” của Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B.

- Không chấp nhận toàn bộ đơn yêu cầu phản tố, đề ngày 02/7/2020 và đơn yêu cầu phản tố bổ sung, đề ngày 17/8/2020 về việc “Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Ông Đặng Thanh C.

* Áp dụng Điều 158, khoản 1 Điều 160, 166 Bộ luật Dân sự năm 2015, các Điều 4, 5, 97 Luật đất đai năm 2003;

Xử: - Công nhận Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B là người có quyền sử dụng thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.287m2, địa chỉ đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum (Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum số CQ 854000 ngày 22/7/2019 mang tên Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B; đăng ký biến động ngày 30/7/2019 nội dung: Chuyển nhượng cho Ông Đinh Văn T thửa 217, diện tích 227m2; còn lại thửa 216, diện tích 1287m2).

- Công nhận Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B là người có quyền sở hữu 01 ngôi nhà cấp 4 và công trình phụ có tổng diện tích 57,3m2, tường xây gạch, quét vôi, nền gạch men, mái lợp tôn, tọa lạc trên thửa đất có diện tích 102m2, tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75 (nằm trong tổng diện tích đất 1.287m2), số 50 đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

- Buộc Ông Đặng Thanh C trả lại 01 ngôi nhà cấp 4 và công trình phụ có tổng diện tích 57,3m2, tường xây gạch, quét vôi, nền gạch men, mái lợp tôn, tọa lạc trên thửa đất có diện tích 102m2, tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75 (nằm trong tổng diện tích đất 1287m2), số 50 đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B.

Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích nhà trên đất.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, thời hạn kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 3/10/2020 bị đơn Ông Đặng Thanh C, có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, đề nghị cấp phúc thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị đơn Ông Đặng Thanh C vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo; nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với những người tham gia tố tụng các đương sự đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định và hợp pháp nên được thụ lý xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị đơn về toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số:

22/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum thấy rằng.

[2.1].Về nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75, diện tích 1.514m2, tại địa chỉ đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Năm 1986, UBND phường Thắng Lợi, thị xã Kon Tum (nay là thành phố Kon Tum), tỉnh Kon Tum thực hiện chính sách giãn dân, tách hộ, làm kinh tế vườn nên cấp cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B, làm nhà ở, sinh sống ổn định từ đó đến nay. Năm 2003 được UBND thị xã Kon Tum (nay là thành phố Kon Tum), cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 28, tờ bản đồ số 43, diện tích 1.432m2. Trong quá trình sử dụng, ông A bà B thấy diện tích đất sử dụng thực tế nhiều hơn so với diện tích trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên xin cấp đổi. Sau khi xem xét hồ sơ địa chính đo đạc năm 2008 và tờ bản đồ số 75 đo đạc chỉnh lý năm 2013; kiểm tra hồ sơ cấp đổi Giấy chứng nhận năm 2019 của ông A và bà B , thể hiện đúng hiện trạng, không tranh chấp, đã được Ủy ban nhân dân phường T và Văn phòng đăng ký đất đai, kiểm tra, xác nhận theo quy định. Do đó, Ngày 22/7/2019 Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum đã cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CQ 854000 cho ông A và bà B là đúng theo quy định của pháp luật.

Bị đơn ông C cho rằng nguồn gốc đất 1.514m2, địa chỉ đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, là do ông khai hoang từ năm 1975 đến năm 1985, diện tích khoảng 2700m2. Sau năm 1985, Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi, thị xã Kon Tum, thực hiện kế hoạch giãn dân, tách hộ, lập vườn nên thu hồi. Xét lời khai này của ông không được nguyên đơn thừa nhận, và ông C không đưa ra tài liệu, chứng cứ chưng minh được diện tích đất tranh thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình. Mặt khác, ông cũng thừa nhận nhà nước thu hồi đất để thực hiện chính sách giãn dân, tách hộ, lập vườn là đúng quy định pháp luật ông không có quyền đòi lại.

Theo lời khai của vợ ông C, bà Tuyết M khẳng định thửa đất tranh chấp tại đường Đinh Tiên Hoàng không phải tài sản chung của bà và ông C, mà của ông A, bà B nên quá trình xin ly hôn và chia tài sản chung, ông bà không yêu cầu chia tài sản này. Đồng thời, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Kon Tum là cơ quan cấp GCNQSDĐ cho ông A, bà B đã có văn bản trả lời Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi cấp đất cho ông A và bà B theo chủ trương dãn dân tách hộ lập vườn vào năm 1986 để làm căn cứ xác định ông A, bà B là người sử dụng thửa đất trên.

Như vậy, có đủ cơ cở xác định diện tích đất 1.514m2 tại đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum là của ông Trần Văn Avà bà Đặng Thị B.

Trong diện tích 1.514m2, năm 2019 ông A, bà B đã chuyển nhượng 227m2 cho ông T bà M đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định.

[2.3] Về tài sản tranh chấp: Trên diện tích đất 1.514m2 có 02 căn nhà. Căn nhà thứ 01 số 48 Đinh Tiên Hoàng (không tranh chấp). Căn nhà thứ 02 số 50 Đinh Tiên Hoàng, cả nguyên đơn và bị đơn đều cho rằng do mình xây dựng vào tháng 7/2014, thuê chủ thầu là ông Nguyễn Quang D xây dựng.

Để chứng minh cho lời khai của mình là có căn cứ, ông A, bà B đã cung cấp cho Tòa án: Hồ sơ xin phép công trình xây dựng đối với nhà ở do Phòng quản lý đô thị phê duyệt và Giấy phép xây dựng số 394/GPXD (sử dụng cho nhà ở riêng lẻ đô thị) do Ủy ban nhân dân thành phố Kon Tum cấp ngày 03/7/2014 cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B là hợp pháp. Mặc khác, người xây dựng là ông Nguyễn Quang D khai toàn bộ việc quản lý và thanh toán tiền công là do ông A, bà B trực tiếp thanh toán cho ông.

Bị đơn Ông Đặng Thanh C cho rằng, ông xây nhà số tiền 250.000.000 đồng. Tuy nhiên, không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào chứng minh căn nhà đang tranh chấp thuộc quyền sở hữu của ông.

Như vậy, cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 158, khoản 1 Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015, các Điều 4, 5, 97 Luật đất đai năm 2003; Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Ông Đặng Thanh C phải trả lại căn nhà số 50 Đinh Tiên Hoàng cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B là hoàn toàn có căn cứ. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Ông Đặng Thanh C là đúng với quy định của pháp luật.

Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo, cần giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 22/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum là phù hợp.

[3] Ngoài ra cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm: Tuyên phần Quyết định của bản án quá dài, chỉ cần tuyên, xử: Buộc Ông Đặng Thanh C trả lại 01 ngôi nhà cấp 4, công trình phụ có diện tích 57,3m2, trên thửa đất có diện tích 102m2, tại thửa đất số 81, tờ bản đồ số 75 (nằm trong tổng diện tích đất 1287m2), số 50 đường Đinh Tiên Hoàng, phường T, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum cho Ông Trần Văn A và bà Đặng Thị B, là đầy đủ.

[3] Về án phí: Ông Đặng Thanh C là người cao tuổi, thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí nên không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Ông Đặng Thanh C Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 22/2020/DS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

* Về án phí: Căn cứ các Điều 144, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 6, 12, 18, 19, khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Ông Đặng Thanh C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

787
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2020/DS-PT ngày 07/12/2020 về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:10/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kon Tum
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về