TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ, THÀNH PHỐ CÀN THƠ
BẢN ÁN 10/2019/KDTM-ST NGÀY 13/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Trong ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2019/TLST-KDTM ngày 09 tháng 8 năm 2019 về“Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 199/2019/QĐXXST-KDTM ngày 02 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (tên viết tắt NGÂN HÀNG S)
Địa chỉ: Số 266 – 268 N, phường X, quận Y, TP.Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D Chức vụ: Tổng Giám đốc
Đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Thanh L (có mặt)
Chức vụ: Chuyên viên quản lý nợ
Địa chỉ: Số 95 – 97 – 99 V, phường T, quận N, TP Cần Thơ. (Theo Giấy ủy Q số: 1833/2019/UQ-CNCT ngày 24/7/2019)
2. Bị đơn: Chị Võ Thị Ngọc Q, sinh năm 1982 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, thị trấn C, huyện C, TP.Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (NGÂN HÀNG S) có đại diện theo ủy Q – ông Hồ Thanh Lâm trình bày:
Vào ngày 17/7/2013, NGÂN HÀNG S ký hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều số: C0084 với chị Võ Thị Ngọc Q có nội dung là NGÂN HÀNG S cho chị Q vay số tiền 30.000.000 đồng, mục đích vay là bổ sung vốn kinh doanh tiểu thương, lãi suất 2,5%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, thời hạn vay 06 tháng (đến ngày 13/01/2014). Theo thỏa thuận, chị Q phải trả cho NGÂN HÀNG S gốc và lãi là 34.500.000 đồng, mỗi ngày trả 191.700 đồng.
Trong thời hạn thực hiện hợp đồng, chị Q chỉ trả gốc và lãi cho NGÂN HÀNG S đến ngày 11/10/2013 với số tiền 26.262.900 đồng (trong đó gốc 22.837.900đ, lãi 3.425.000đ) thì không trả tiếp. Khi chị Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ như đã thỏa thuận, NGÂN HÀNG S đã nhiều lần làm việc, nhắc nhỡ, đôn đốc chị Q thực hiện nghĩa vụ, đồng thời thông báo, giải thích cho chị Q biết về việc sẽ chuyển nợ quá hạn nếu chị Q không thực hiện đúng nghĩa vụ. Tuy nhiên, chị Q vẫn không thực hiện nên còn nợ lại số tiền 8.237.100 đồng (trong đó nợ gốc 7.162.100đ, nợ lãi 1.075.000đ). Do đó, khi hết hạn hợp đồng, NGÂN HÀNG S đã chuyển toàn bộ nợ gốc chị Q chưa thực hiện thành nợ quá hạn.
Sau khi hết hạn hợp đồng, NGÂN HÀNG S cũng đã nhiều lần làm việc, nhắc nhỡ, đôn đốc chị Q thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng chị Q không thực hiện. Tính đến ngày 13/11/2019 chị Q nợ NGÂN HÀNG S số tiền 27.306.191 đồng (trong đó tiền gốc 7.162.100đ, tiền lãi trong hạn 1.075.000đ, tiền lãi quá hạn 19.069.091đ). Vì vậy, NGÂN HÀNG S yêu cầu chị Q trả số tiền này và phải tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều đã ký kết kể từ ngày 14/11/2019 đến khi thanh toán xong nợ. Các yêu cầu khởi kiện khác, xin thay đổi theo hướng không còn giữ yêu cầu.
Chị Võ Thị Ngọc Q không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án và cũng không có văn bản gửi cho Tòa án thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của NGÂN HÀNG S.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều số: C0084 ngày 17/7/2013 được ký kết giữa NGÂN HÀNG S với chị Võ Thị Ngọc Q là phù hợp với quy định pháp luật. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, chị Q đã vi phạm nghĩa vụ nên căn cứ vào Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NGÂN HÀNG S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Thẩm Q giải quyết: NGÂN HÀNG S khởi kiện chị Võ Thị Ngọc Q có địa chỉ tại ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ trả số tiền vay còn nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” và thuộc thẩm Q giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ theo quy định tại Điều 30, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Thủ tục tố tụng: Khi tiến hành xét xử, chị Võ Thị Ngọc Q đã được triệu tập nhiều lần nhưng chị Q vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Q theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] NGÂN HÀNG S khởi kiện yêu cầu chị Võ Thị Ngọc Q trả số tiền tính đến ngày 13/11/2019 là 27.306.191 đồng (trong đó tiền gốc 7.162.100đ, tiền lãi trong hạn 1.075.000đ, tiền lãi quá hạn 19.069.091đ) theo hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều số: C0084 ngày 17/7/2013. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn chị Q đến để làm rõ vụ án, về việc có hay không việc chị Q ký hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều để vay NGÂN HÀNG S số tiền 30.000.000 đồng với lãi suất vay, mục đích vay, thời gian vay, số tiền đã trả, số tiền còn nợ như đại diện theo ủy Q NGÂN HÀNG S trình bày. Tuy nhiên, chị Q vẫn không có mặt và cũng không có văn bản nào gửi cho Tòa án để thể hiện ý kiến của mình. Như vậy, chị Q đã từ bỏ Q, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết. Theo chứng cứ vụ án thể hiện, ngày 17/7/2013 NGÂN HÀNG S và chị Q có ký hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều số: C0084 với nội dung là NGÂN HÀNG S cho chị Q vay số tiền 30.000.000 đồng, mục đích vay là bổ sung vốn kinh doanh tiểu thương, lãi suất 2,5%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, thời hạn vay 06 tháng (đến ngày 13/01/2014), tổng số tiền gốc và lãi chị Q phải trả là 34.500.000 đồng, mỗi ngày trả 191.700 đồng. Từ khi vay đến khi hết hạn hợp đồng vào ngày 13/01/2014, chị Q đã trả cho NGÂN HÀNG S số tiền 26.262.900 đồng (trong đó gốc 22.837.900đ, lãi 3.425.000đ), còn nợ lại số tiền 8.237.100 đồng (trong đó nợ gốc 7.162.100đ, nợ lãi 1.075.000đ). Tính đến ngày 13/11/2019 là 27.306.191 đồng (trong đó tiền gốc 7.162.100đ, tiền lãi trong hạn 1.075.000đ, tiền lãi quá hạn 19.069.091đ).
[2.2] Căn cứ vào hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều nêu trên, thấy rằng việc ký kết hợp đồng giữa NGÂN HÀNG S và chị Q là hoàn tự nguyện, những điều khoản trong hợp đồng không trái với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, chị Q đã vi phạm nghĩa vụ nên yêu cầu khởi kiện của NGÂN HÀNG S là có căn cứ để chấp nhận.
[2.3] Đối với yêu cầu chị Q tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều đã ký kết kể từ ngày 14/11/2019 đến khi thanh toán xong nợ của NGÂN HÀNG S. Xét yêu cầu này của NGÂN HÀNG S đã được ghi trong hợp đồng và phù hợp với quy định pháp luật nên có căn cứ để chấp nhận.
[2.4] Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của NGÂN HÀNG S đối với chị Q về yêu cầu trả số tiền tính đến ngày 13/11/2019 là 27.306.191 đồng (trong đó tiền gốc 7.162.100đ, tiền lãi trong hạn 1.075.000đ, tiền lãi quá hạn 19.069.091đ) và phải tiếp tục trả lãi theo hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều đã ký kết kể từ ngày 14/11/2019 đến khi thanh toán xong nợ.
[2.5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của NGÂN HÀNG S được chấp nhận nên chị Q phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 30; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng;
- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần S đối với chị Võ Thị Ngọc Q.
- Buộc chị Võ Thị Ngọc Q trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền tính đến ngày 13/11/2019 là 27.306.191 đồng (trong đó tiền gốc 7.162.100đ, tiền lãi trong hạn 1.075.000đ, tiền lãi quá hạn 19.069.091đ).
- Buộc chị Võ Thị Ngọc Q phải tiếp tục trả lãi cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S theo hợp đồng tín dụng vốn lãi chia đều số: C0084 ngày 17/7/2013 kể từ ngày 14/11/2019 đến khi thanh toán xong nợ.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Võ Thị Ngọc Q phải chịu 3.000.000 đồng.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được nhận lại 3.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 001717 ngày 09 tháng 8 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cờ Đỏ.
3. Tuyên án công khai. Đương sự có mặt được Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt được Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có Q thỏa thuận thi hành án, Q yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 10/2019/KDTM-ST ngày 13/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 10/2019/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 13/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về