Bản án 10/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD, TỈNH HD

BẢN ÁN 10/2019/HS-ST NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 264/2018/HSST ngày 26/12/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2019/QĐXXST-HS ngày 14/01/2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn Th , sinh năm: 1971; Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đội 1, khu Phú Tảo, phường Thạch Khôi, thành phố HD, tỉnh HD; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Ng , sinh năm: 1942 và bà: Nguyễn Thị K , sinh năm: 1944; vợ: chị Đỗ Thị L , sinh năm:1974; bị cáo có hai con; con lớn - sinh năm: 1993, con nhỏ - sinh năm: 1999. Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bản án số 1726 ngày 29/10/1997 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, được đặc xá tha tù trước thời hạn ngày 22/10/1998, nộp tiền án phí ngày 06/9/1999; ngày 24/6/2011 được đình chỉ thi hành án phần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Quyết định số 09/QĐ-XPVPC ngày 11/7/2004 của Công an phường Trần Phú, thành phố HD xử phạt vi phạm Hành chính bằng hình thức phạt tiền 100.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, bị cáo nộp tiền phạt ngày 11/7/2004. Quyết định số221/QĐ-PHC ngày 19/9/2007 của Công an thành phố HD xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 100.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, bị cáo nộp tiền phạt ngày 23/10/2007. Bản án số 168/2010/HSST ngày 26/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt bị cáo 27 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo nộp án phí ngày 10/3/2010, ra trại ngày 12/5/2012; biện pháp ngăn chặn: bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/10/2018, chuyển tạm giam từ ngày 05/10/2018 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi - Công an tỉnh HD. Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

1. Ông Bùi Văn L , sinh năm: 1962.

Trú tại: Số 40/61 Chương Mỹ, phường Phạm Ngũ Lão, thành HD, tỉnhHD. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Trần Trung K , sinh năm: 1986.

Trú tại: khu 21, phường Nhị Châu, thành phố HD, tỉnh HD. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10h30’ngày 03/10/2018, tại trước cửa Công ty Thiên Thanh, đường Bến Xe, khu 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố HD, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD bắt quả tang Phạm Văn Th cất giấu trái phép 01 gói nilon, kích thước (0,5x1)cm, màu đen, bọc ngoài gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, Thuận khai nhận là Heroine cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của ông Bùi Văn L ở 40/61 Chương Mỹ, phường Phạm Ngũ Lão, thành phố HD và anh Trần Trung K ở khu 21, phường Nhị Châu, thành phố HD.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Phạm Văn Th là người nghiện chất ma túy (loại Heroine). Khoảng 10h00’ngày 03/10/2018, Th điều khiển xe đạp đi đến ngõ 64 An Ninh, phường Bình Hàn, thành phố HD mua được 01 gói Heroine với số tiền 100.000 đồng của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) rồi cầm trong tay trái đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 10h30’ cùng ngày, khi Thuận đi đến trước cửa Công ty Thiên Thanh, đường Bến Xe, khu 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố HD thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố HD kiểm tra, thu giữ trong lòng bàn tay trái của Thuận 01 gói nilon, kích thước (0,5x1)cm, màu đen, bọc ngoài gói giấy màu trắng, có dòng kẻ, bên trong có chứa chất bột dạng cục, màu trắng; 01 xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc trước sự chứng kiến của ông Bùi Văn L và anh Trần Trung K .

Tại Kết luận giám định số 578/KLGĐ-PC09 ngày 04 tháng 10 năm2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Phạm Văn Th gửi đến giám định có khối lượng là 0,142gam, là ma túy, loại Heroine. Heroine nằm trong Danh mục I, STT: 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Về vật chứng: Đối với 0,076 gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 578/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh HD; 01 xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc đang được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố HD chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên. Đối với chiếc xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc, bị cáo xác định là tài sản riêng của mình, không liên quan đến vợ bị cáo và bị cáo không sử dụng chiếc xe vào việc tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tại Cáo trạng số: 05/CT-VKSTPHD ngày 24 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Phạm Văn Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn Th từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 03/10/2018. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,076 gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 578/KLGĐ-PC09 cña Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD; trả lại bị cáo Phạm Văn Th 01 xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án (đều có đặc điểm như Biên bản giao,nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 04/01/2019).

Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Phạm Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu điều tra khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10h30’ngày 03/10/2018, tại trước cửa Công ty Thiên Thanh, đường Bến Xe, khu 14, phường Nguyễn Trãi, thành phố HD, Phạm Văn Th đang cất giấu trái phép 0,142 gam Heroine để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy

- Công an thành phố HD phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm tàng trữ, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,142 gam Heroine trong người để sử dụng trái phép là vi phạm pháp luật nhưng với mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD truy tố bị cáo Th về tội danh trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

[3] Xét bị cáo đã nhiều lần bị kết án và bị xử phạt hành chính, đối với các bản án và quyết định xử phạt hành chính trên đến nay đã được xóa, nhưng bị cáo vẫn có nhân thân xấu. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bố đẻ bị cáo là thương binh hạng 4/4 nên nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy vẫn cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,076 gam Heroine hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ thì bị tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe là tài sản riêng của bị cáo nhưng bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại bị cáo theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Không làm rõ được người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Thuận nên không có căn cứ xử lý.

[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn Th 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tínhtừ ngày tạm giữ 03/10/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,076 gam Heroine hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 578/KLGĐ- PC09 cña Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương; trả lại bị cáo Phạm Văn Th 01 xe đạp có in chữ FHBIKE ở khung, màu bạc nhưng bảo thủ để đảm bảo thi hành án (đều có đặc điểm như Biên bản giao,nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố HD và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố HD ngày 04/01/2019)

3. Về án phí: buộc bị cáo Phạm Văn Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thờihạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HS-ST ngày 25/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:10/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về