Bản án 10/2019/HNGĐ-PT ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 10/2019/HNGĐ-PT NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 12/2019/TLPT-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 04/2019/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Toà án nhân dân quận A, thành phố Hải Phòng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1295/2019/QĐ-PT ngày 01 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1983; nơi cư trú: Số 19 ngõ 29 đường C, tổ D, phường E, quận A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số 19 ngõ 29 đường C, tổ D, phường E, quận A, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn G là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06-12-2018, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày:

Anh G và chị B kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường E, quận A, thành phố Hải Phòng ngày 05-3-2008. Ngay thời gian đầu chung sống, chị B và anh G thường xuyên mâu thuẫn; nguyên nhân chính do anh G không tin tưởng, thường kiểm soát, gây áp lực cho chị B. Do mâu thuẫn căng thẳng nên đầu năm 2018, chị B đã làm đơn xin ly hôn gửi Tòa án. Sau đó, được gia đình hòa giải, động viên nên chị B đã rút đơn ly hôn để vợ chồng đoàn tụ. Nhưng không vì thế mà anh G thay đổi tính cách nên quan hệ vợ chồng không được cải thiện theo chiều hướng tốt. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục nên đến cuối năm 2018, chị B cùng các con chung về nhà bố mẹ đẻ của chị B ở. Chị B và anh G sống ly thân từ đó, không còn quan tâm đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm đối với anh G không còn, mâu thuẫn vợ chồng không còn khả năng khắc phục nên chị B yêu cầu được ly hôn với anh G.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị B, anh G có hai con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010 và Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016. Ly hôn, chị B có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung vì đặc thù công việc của anh G là lái xe container thường xuyên phải xa nhà, ít có thời gian để chăm lo cho con; các con muốn được ở cùng nhau và đang ở ổn định. Chị B không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 13-12-2018 và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm bị đơn anh Nguyễn Văn G trình bày:

Anh G thừa nhận mối quan hệ giữa chị B, anh G được xác lập như chị B trình bày. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách và quan điểm sống không phù hợp. Hiện tại, chị B và anh G đã sống ly thân. Anh G thấy rằng, mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng và có thể hàn gắn được. Tuy nhiên, nếu chị B vẫn cương quyết xin ly hôn thì anh G cũng chấp nhận.

Về con chung: Anh G xác nhận anh G và chị B có hai con chung như chị B trình bày, nếu ly hôn, anh G có nguyện vọng được nuôi một con chung và không yêu cầu chị B đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Nếu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, anh G sẽ thay đổi công việc để có điều kiện chăm sóc con và đưa con về Thái Nguyên sinh sống cùng ông, bà nội để hỗ trợ anh G trong việc chăm sóc con.

Về tài sản chung: Anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Với nội dung như trên, tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 04/2019/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 02 năm 2019, Tòa án nhân dân quận A, thành phố Hải Phòng đã căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 19, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 

Xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị B được ly hôn anh Nguyễn Văn G. Về quan hệ con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010 và Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh G không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14 tháng 02 năm 2019, anh G kháng cáo bản án với lý do đề nghị Tòa án cho anh G được quyền trực tiếp nuôi dưỡng một trong hai con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010 hoặc Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Anh G, chị B thống nhất ly hôn. Về quan hệ nuôi con chung: Anh G, chị B tự nguyện thỏa thuận: Ly hôn, anh G trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010; chị B trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Anh G, chị B không yêu cầu Tòa án gải quyết.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của đương sự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quan điểm của Kiểm sát viên về giải quyết đối với bản án sơ thẩm bị kháng cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, chị B và anh G thỏa thuận anh G trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010; chị Huyền trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016. Sự thỏa thuận của anh G, chị B hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về quan hệ nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Quan hệ tranh chấp của vụ án là ly hôn, tranh chấp về nuôi con - quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do vụ án có kháng cáo nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

- Về nội dung kháng cáo:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị B và anh G kết hôn do tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường E, quận A, thành phố Hải Phòng ngày 05- 3-2008 nên là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị B và anh G đã sâu sắc, không còn khả năng khắc phục; cả chị B và anh G đều thống nhất ly hôn nên Tòa án cấp sơ thẩm xử cho chị B được ly hôn với anh G là có căn cứ, đúng với quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Tại phiên tòa phúc thẩm, chị B và anh G thống nhất thỏa thuận: Ly hôn, anh G trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010; chị B trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Thỏa thuận này của chị B và anh G là tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận và cần sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Chị B và anh G đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về quan hệ tài sản: Anh G, chị B không yêu cầu nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm:

[5] Chị B phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật - Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14.

[6] Anh G phải nộp án phí ly hôn phúc thẩm theo quy định của pháp luật - khoản 5 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Văn G (về quan hệ nuôi con chung).

Sửa một phần Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 04/2019/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận A, thành phố Hải Phòng về quan hệ nuôi con chung.

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27, khoản 5 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí

Tòa án.

1. Về quan hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị B được ly hôn với anh Nguyễn Văn G.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Xử công nhận sự thỏa thuận sau:

Anh Nguyễn Văn G trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Tiến H, sinh ngày 24-01-2010 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Chị Nguyễn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Hương I, sinh ngày 25-02-2016 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung, các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn G và chị Nguyễn Thị B đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà họ không trực tiếp nuôi dưỡng; các bên không được cản trở nhau thực hiện quyền này. Các bên không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về quan hệ tài sản: Anh Nguyễn Văn G và chị Nguyễn Thị B không yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết.

4. Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn. Chị Nguyễn Thị B đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu sô 0016692 ngày 13 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận A, thành phố Hai Phong. Chị Nguyễn Thị B đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn G phải chịu 300.000 đồng tiền án phí phúc thẩm , được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đông theo Biên lai thu sô 0004854 ngày 21 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sư quận A, thành phố Hải Phòng. Anh Nguyễn Văn G đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 10/2019/HNGĐ-PT ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về